Graves - Kẻ ngoài vòng pháp luật

"Chúng ta chỉ cần vàng chứ không cần mạng, nên đừng có ai cố làm anh hùng."

~ Graves

---

Malcolm Graves là một lính đánh thuê, tay cờ bạc, và kẻ cướp khét tiếng—một kẻ bị truy nã ở mọi thành phố và đế quốc hắn ghé qua. Dù nóng tính, hắn lại rất trọng danh dự của một tội phạm, và thường kết thúc mọi sự vụ bằng khẩu shotgun hai nòng Cái Định Mệnh. Dạo gần đây, hắn đã hàn gắn lại mối quan hệ với Twisted Fate, và chúng lại cùng nhau gây náo loạn thế giới tội phạm ngầm Bilgewater.

Tướng liên quan: Twisted Fate, Gangplank, Miss Fortune

Khu vực: BilgeWater 

---

Tiểu sử tướng:

Malcolm Graves – kẻ bị truy nã ở mọi quốc gia, mọi thành bang, mọi đế chế hắn từng đặt chân đến. Cứng cỏi, mạnh mẽ, và cực kỳ tàn nhẫn, suốt cuộc đời tội phạm của mình, hắn đã gom góp được (để rồi lại mất đi) cả một gia tài nhỏ.

Lớn lên giữa những con hẻm nơi cầu cảng Bilgewater, Malcolm nhanh chóng học cách đánh lộn và chôm chỉa, đống kỹ năng vô cùng hữu dụng với hắn sau này. Trốn dưới đáy tàu hàng để đi lậu đến lục địa từ lúc mới bước vào tuổi thanh niên, hắn đã móc túi, lừa lọc, và bài bạc khắp nơi này đến chốn nọ. Cũng chính trên bàn bài đầy căng thẳng mà Malcolm gặp người sẽ thay đổi đời hắn: tay bạc bịp Twisted Fate ngày nay. Hai tên đều thấy ở nhau lòng yêu thích chẳng nghĩ suy với nguy hiểm và phiêu lưu. Thế là, một tình bạn kỳ quặc đã nảy sinh và kéo dài gần thập kỷ.

Kết hợp những tài năng độc đáo của mình, Graves cùng Twisted Fate trở thành một cặp bài trùng thực hiện vô số phi vụ lớn. Đám nhà giàu ngốc nghếch bị chúng coi là đối tượng để kiếm vàng bạc, danh tiếng, và cả sự kích thích tột độ nữa. Được mạo hiểm còn hấp dẫn hơn nhiều so với của cải nó mang lại.

Ở biên giới Noxus, chúng khiến hai đại gia tộc quay ra chống đối lẫn nhau vì nghi ngờ người thừa kế của bên này đang bị bên kia bắt giữ. Rồi chúng lặng lẽ bỏ túi số tiền chuộc và bỏ đi trong lúc tất cả còn đang bàng hoàng. Ở Piltover, chúng được biết đến là những kẻ duy nhất đột nhập vào Hầm Dây Cót bất khả xâm phạm. Không chỉ khoắng sạch mọi tài sản, chúng còn lừa đội lính gác chất hàng lên tàu hộ mình. Đến lúc bộ đôi này mất dạng, vụ cướp mới bị phát hiện cùng với lá bài mang nhãn hiệu Twisted Fate.

Song rốt cuộc vận may cũng cạn. Trong một phi vụ thất bại, Twisted Fate dường như đã phản bội và bỏ rơi đồng bọn. Graves bị bắt sống rồi tống vào nhà ngục Tủ Khóa khét tiếng.

Suốt quãng thời gian tù đày tra tấn sau đó, mối hận của hắn với kẻ từng hợp tác ngày càng lớn dần. Một tên kém cỏi chắc chắn đã gục ngã từ lâu, nhưng Malcolm Graves chịu đựng tất cả và thoát thân thành công. Hắn đào hầm trốn ra ngoài để bắt đầu cuộc săn đuổi Twisted Fate, kẻ phản bội đã tặng cho hắn mười năm đầy những thống khổ không lời nào tả xiết.

Cuối cùng, Graves đã có cơ hội đối mặt với Twisted Fate. Tuy nhiên, sau khi biết được sự thật về chuyện đã xảy ra, đồng thời cùng người bạn cũ lách khỏi bàn tay tử thần của Gangplank trong đường tơ kẽ tóc, Graves đã gạt bỏ thù hằn. Già dặn hơn, thậm chí tinh quái hơn, cả hai tiếp tục con đường đang dang dở, dùng lừa đảo, trộm cướp, và bạo lực để tìm kiếm giàu sang.

---

Truyện ngắn: 

PHÁT SÚNG CUỐI CÙNG

Ngồi giữa quán rượu không bóng người, với cả tá vết thương đang rỉ máu và nguyên một đội vũ trang đầy đủ đang muốn lấy đầu hắn, Malcolm Graves hẳn đã có những ngày tuyệt hơn thế. Hắn cũng từng gặp những ngày tệ hơn, nên chẳng có gì phải lo lắng cả. Graves dựa tay lên quầy, tự lấy cho mình một chai. Hắn thở dài khi đọc nhãn.

"Rượu nho Demacia? Ngươi chỉ có thế thôi à?"

"Chai đắt nhất của tôi đấy ạ..." tiếng chủ quán rúm ró giữa biển thủy tinh vỡ sau quầy vang lên.

Graves nhìn quanh và nhe răng cười.

"Chai duy nhất ngươi có thì đúng hơn."

Lão già đang ngập trong hoảng loạn. Rõ là ông ta không quen với việc bị kẹt giữa trận đấu súng thế này. Đây không phải Bilgewater, nơi những cuộc ẩu đả chết người nổ ra mười lần mỗi ngày. Piltover được coi là một thành phố văn minh hơn quê nhà của Graves. Ít nhất cũng theo cách nào đó.

Hắn mở nút chai bằng răng và nhổ nó xuống sàn trước khi tợp một ngụm. Hắn súc vài lần trong miệng xong mới nuốt xuống, giống đám nhà giàu vẫn hay làm.

"Như nước lã," hắn làu bàu, "nhưng ăn mày đâu có được đòi xôi gấc, nhỉ?"

Có giọng nói hét vọng qua khung cửa sổ, chứa đầy tự tin và can đảm giả tạo khi bên mình đông người hơn.

"Đầu hàng đi, Graves. Chúng ta có bảy, ngươi chỉ có một. Sẽ không có kết cục tốt đẹp đâu."

"Rõ là không rồi," Graves gào lên đáp trả. "Nếu muốn giải quyết ta thì nên tìm thêm vài thằng nữa đi!"

Hắn làm thêm một hớp nữa, rồi đặt nó xuống quầy.

"Vào việc thôi," hắn nhấc cây súng săn độc nhất vô nhị lên.

Graves đặt hai viên đạn mới cứng vào vị trí. Khẩu súng bật lên một âm thanh thỏa mãn đầy nguy hiểm, đủ lớn để đám ngoài kia nghe thấy. Ai từng quen hắn cũng sẽ biết đến tiếng động đó và ý nghĩa của nó.

Kẻ ngoài vòng pháp luật hất thanh chắn quầy lên và tiến ra cửa, những mảnh thủy tinh kêu rào rạo khi gót giày hắn giẫm lên. Hắn cúi người liếc qua ô kính vỡ. Bốn người đang nấp sau mấy tấm chắn tạm bợ: hai gã ở tầng trên của tiệm kim hoàn, hai gã khác ẩn trong bóng tối hai bên lối vào. Tất cả đều nắm chặt cung hoặc súng hỏa mai.

"Chúng ta đã theo dấu ngươi từ lâu rồi, đồ con hoang," lại giọng nói đó hét lên. "Lệnh truy nã không nói rõ ngươi phải còn sống hay đã chết. Đi ra ngoài ngay, tay giơ cao trên đầu, và sẽ không ai cần đổ máu thêm cả."

"Ờ, đang ra đây," Graves nói. "Đừng có lo."

Hắn lôi một Ngân Xà trong túi ra và thảy lên quầy. Nó xoay tròn vài vòng giữa vũng rượu rum trước khi nằm yên. Bàn tay lão chủ quán run rẩy quờ quạng với lấy đồng bạc. Graves cười nhăn nhở.

"Trả cho cánh cửa đó," hắn bảo.

"Cánh cửa nào?" chủ quán thắc mắc.

Graves đạp chân lên cửa quán, đá văng nó khỏi bản lề. Hắn lao qua đống gỗ vụn nát, quỳ một chân xuống, khẩu súng bên hông bắt đầu khạc đạn.

"Được rồi, lũ khốn!" hắn gầm vang. "Kết thúc chuyện này đi!"

---

ĐỊNH MỆNH VÀ SỐ PHẬN

BỞI ANTHONY REYNOLDS

Ôi, Bilgewater
Cái hố phân hôi hám, bẩn thỉu lúc nào đầy rẫy sự phản bội và xác người… nhưng thật tốt khi được về nhà.
Lưng hướng về đại dương mênh mông, ta chèo thuyền dọc theo Vịnh Bilgewater, để tắm mình trong ánh sáng của thành phố cảng, lấp lánh như đống đá giả vàng ở phía xa.
Bọn ta đã theo vài vụ ở bên Valoran, nơi cái chốn Thành Phố Tân Tiến và người chị em xập xệ, xấu xí của nó, nhưng tình hình ở đấy đang trở nên căng thẳng hơn. Ngoài ra, Hoàng Tử đã liên lạc với bọn ta bằng bản hợp đồng này, và số tiền được ghi trên nó quá ngon để có thể phớt lờ.
Rất rất ngon, thề, đối với một phi vụ tìm kiếm. Không phải dễ—luôn là vậy—nhưng như ta nói đấy, số tiền mà nó mang lại khó mà có thể chối từ.
Vẫn chưa tin được là bọn ta đã quay về đây. Lần cuối khi ở đây, mọi thứ nổ tung lên cả.
Sarah Fortune chơi bọn ta như mấy con rối—ta, T.F, và cả tên Gangplank nữa. Đếch có đứa nào dám chơi gã tâm thần khốn nạn ấy như ả ta đâu. Cho gã và chiến thuyền của gã ta nổ tan xác, dưới sự chứng kiến của toàn Bilgewater. Còn ta và T.F thì được xem cận cảnh luôn. Cũng may trời độ nên mới sống sót đó. Dĩ nhiên rồi, ta vẫn khá là thù hằn với ả, nhưng cũng phải thừa nhận là ta thực sự ấn tượng trước những gì mà ả làm được. Nghe đồn là giờ ả đang làm chủ thành phố này. Chỉ còn một vài tên thuyền trưởng cần phải chỉnh đốn, hoặc nhấn cho chìm hẳn xuống đáy vịnh. Chỉ còn một vài kẻ tin rằng chúng có thể chơi một cú lớn để giành lấy ngai vàng tự xưng này cho mình. Chẳng hạn như ông bạn già của bọn ta, Hoàng Tử...
“Mày ít ra có thể cố tập trung vào công việc được không? Tụi mình đang lệch khỏi quỹ đạo kìa.”
T.F cằn nhằn ta. Trong khi ta đang chèo bở hơi tai, tên khốn ấy chỉ ngồi một chỗ, lơ đễnh xoay xoay mấy lá bài trên tay. Dẫu sao thì hắn cũng hơi gầy gò cho công việc chèo thuyền, nhưng việc hắn cứ ngồi đó chỉ trích ta như một gã quý tộc Demacia cao sang khiến ta phát cáu.
Nhưng sự thật rằng hắn nói đúng—dòng nước đã cuốn bọn ta đi vài trăm thước về phía nam, có nghĩa là ta lại phải chèo mạnh tay hơn để đưa cả bọn đến đúng chỗ—lại càng làm ta phát bực hơn.
“Giỏi thì làm hộ tao cái, quý ngài,” ta càu nhàu.
“Không thể,” hắn nói, trong khi đặt ba lá bài úp xuống trên một chiếc thùng phía trước mình. “Bận rồi.”
Miệng vẫn cằn nhằn, ta liếc nhìn ra sau lưng để xem hướng. Bọn ta đang băng qua một rừng những hòn đá lởm chởm, mọc lên từ dưới lòng đại dương như những con dao găm. ‘Dĩ nhiên, những hòn đá trồi lên trên mặt nước chẳng phải vấn đề gì to tát. Lúc nào cũng vậy, những mũi dao ngươi không thể nhìn thấy mới là những kẻ sát nhân đích thực.
Chúng được gọi là Bãi Góa Phụ, bởi chúng đã hốt xác hàng tá nạn nhân mỗi năm. Ngươi cũng có thể thấy đống tàn tích của những con thuyền đã đâm sầm vào nó: những mạn thuyền kẹt lại giữa các hòn đá, những tấm ván gỗ tan tác cuộn xoáy, những tấm lưới mục rữa mắc vào những mũi đá sắc như dao cạo.
Đa phần những vụ đắm thuyền đó là do lũ thuyền trưởng óc lợn không muốn trả cho Buhru một chút tiền lễ để được dẫn về với bến cảng an toàn. Lựa chọn đó không khôn ngoan cho lắm đâu nhé.
Cũng may, bọn ta không phải băng qua Bãi Góa Phụ với một thứ gì đó to hơn ba thước từ đầu đến cuối. Tên chiếc thuyền chèo mục nát này là Intrepid, và ta cũng phải thừa nhận là ta cũng khá thích nó kể từ khi gặp nó một vài tiếng trước. Vẻ ngoài của nó không có gì đáng nói—hơi gỉ sét ở mấy góc cạnh, chắc là cần sơn lại chút—nhưng nó chưa hề làm bọn ta thất vọng. Và nó cũng không phàn nàn về cách chèo thuyền của ta nữa.
T.F lần lượt lật ba lá bài lên, từng cái một. Hắn sững sờ, và nhét nó lại vào trong bộ bài trên tay. Hắn đã làm thứ đó kể từ khi bọn ta rời khỏi Cầu Cảng Trắng. Có thứ gì đó trong những lá bài khiến hắn e sợ, nhưng ta thì không bận tâm nhiều. Việc nhỏ tối nay ở bến cảng không phải là chuyện không công, và bọn ta cũng phải làm nó cho ra trò. Ít ra thì ta cũng khá là hài lòng vì một nửa số Kim Xà đã được đặt cọc trước.
Ta chỉ biết rằng, đó là tất cả những gì bọn ta sẽ nhận được, và ta hài lòng với điều đó. Số tiền dễ nhất mà bọn ta từng kiếm được.
Một đám rong biển từ mái chèo của ta đập thẳng vào mặt T.F. Hắn ngừng xáo bài và ngẩng lên nhìn. “Này, mày có phiền không?” hắn nói.
Không, ta không phiền tí nào đâu.
“Rồi, lỗi tao.” ta nhún vai với hắn, và tiếp tục khua mái chèo.
Hắn cởi bỏ mũ và lấy tay lau mặt mình. Xong việc, hắn lại liếc nhìn ta và đội lại mũ. Hắn kéo nó xuống thấp ở trước mặt, cố tỏ ra mình bí ẩn. Nhưng đối với ta thì trông chẳng khác gì một thằng ngu.
Ta nhoẻn miệng cười trong lúc khua máy chèo xuống mặt nước một lần nữa. Lần này thì chuẩn xác, đập ngay một bên mặt hắn. Bẹp.
“Mẹ kiếp,” hắn cằn nhằn. Hắn thọc một ngón tay vào lỗ tai và ngoái. “Mày cố ý đúng không.”
“Không thể cưỡng lại được,” ta nói. “Đấy là lỗi mày, cố trông sang chảnh với bộ áo choàng đẹp mã và tắm một lần mỗi tuần sao? Nó làm tao bực.”
Ta lại nắm thóp được hắn rồi, lần này còn hơn cả mong đợi. Hắn ướt sũng rồi. Bực dọc, hắn bắt đầu đứng dậy, định chỉ tay về phía ta, nhưng chưa gì thì Intrepid đã rung lắc dữ dội. Hắn đành phải vội ngồi xuống lại, bám chặt vào mạn thuyền, khuôn mặt đầy sự sợ hãi đến hài hước. Sang chảnh cho cố vào, và rồi chỉ trong một khoảnh khắc tất cả sự ngầu lòi của T.F đã đổ sông đổ biển.
Ta lắc đầu, cười khúc khích. Ta vẫn đếch thể nào nhịn được cười khi nghĩ về việc hắn từng là một thằng nhóc vùng sông nước, rồi sống nửa đời ở Bilgewater, thế mà hắn vẫn không biết bơi.
Hắn nhìn ta với ánh mắt như mấy viên đạn, mái tóc được chải chuốt bóng mượt của hắn giờ đây xẹp lép và ướt sũng như rong biển vậy. Ta cố nhịn, nhưng vẫn phải bật cười.
“Thằng ngu này,” hắn thốt lên.
Ta vẫn tiếp tục chèo. Sau một lúc lâu, Hồi Chuông Thứ Ba đã vang đến chỗ bọn ta, ngân lên từ phía cảng biển Bilgewater.
“Đến rồi đấy,” T.F thông báo, và xem lại sấp bài một lần nữa.
Ta liếc nhìn ra sau lưng. Một tảng đá lởm chởm, đủ lớn đến mức của một hòn đảo nhỏ đang lù lù trước mắt bọn ta, nhưng nó cũng không khác gì mấy những hòn đá khác.
“Mày chắc chưa?”
“Chắc mà,” hắn trả lời cộc cằn. Có vẻ là vẫn cáu tiết vì bị ướt, ta nghĩ thế. “Tao đã kiểm tra nhiều lần lắm rồi. Mấy lá bài vẫn cứ chỉ đến chỗ này.”
Đó là một trong những chiêu mà T.F có thể làm với bộ bài của hắn. Hắn có thể dùng nó để ra vào những nơi bọn ta không thể đến được, và đó quả là một công cụ hữu hiệu cho các phi vụ. Ta đã từng thấy hắn phóng một lá bài và khiến cả một đoàn xe nổ tung, như thể hắn nhồi thuốc nổ vào trong nó ấy. Nhưng điều hắn làm đêm nay chỉ đơn giản là công việc của mấy gã du mục vùng sông nước. Nhưng phải nói là nó thường khá chính xác đấy.
Theo hướng T.F chỉ, ta cập Intrepid lại gần, chèo vòng qua sườn chắn gió của tảng đá khổng lồ. Dòng thủy triều liên tục dập dìu, chực chờ ném bọn ta vào tảng đá, nhưng ta đủ giúp chiếc thuyền trụ vững và quăng neo khi T.F bảo là đã đúng chỗ.
Vách đá sừng sững trên cao.
“Rồi… tụi mình leo lên đó bằng cái quái gì?” ta hỏi.
“Không cần,” hắn trả lời. “Mấy lá bài nói là nó đang nằm bên trong.”
“Tao không thấy có cái cổng vào nào.”
Và rồi ta thấy miệng T.F nhoẻn cười, tim ta đập thình thịch. Hắn chỉ tay về phía bên kia mạn thuyền, dưới mặt nước.
“Mày đùa tao à,” ta lẩm bẩm.
Lần trước ở Bilgewater, ta đã suýt chết đuối, khi bị xích vào một khẩu đại bác và bị ném qua mạn thuyền. T.F đã cứu ta, nhưng quả đấy thực sự rất suýt soát, và ta không muốn sống lại trải nghiệm đó lần nào nữa đâu.
“’Thật đấy, anh bạn” hắn nói. “Trừ khi mày muốn tao vào đấy một mình…”
“Để mày phắn đi cùng món đồ và ôm hết đống Kim Xà đó một mình sao? Tao không nghĩ thế đâu.”
Ta vẫn chưa quên vụ thằng khốn nạn này bỏ ta lại mục xác trong khi hắn bỏ trốn cùng đống vàng và bắt ta gánh chịu hậu quả đâu. Mấy năm ăn cơm tù đấy không lấy lại được đâu.
“Tao còn nghĩ là mày không tin là thánh điện này có tồn tại cơ mà,” T.F nói “Nếu tao nhớ chuẩn thì mày còn gọi nó là “mò kim đáy bể” mà đúng không?”
“Đúng, đến giờ tao vẫn nghĩ nó là một đống phân ngựa xàm xí thôi, nhưng nếu nó có thật, thì tao muốn có phần.”
Giờ thì hắn mới là đứa cười mỉa, khi ta bắt đầu cởi áo choàng vào ủng. Ta phải đảm bảo rằng đạn dược và xì gà của ta được gói chắc chắn và không thấm nước. Rồi ta phải kiểm tra khẩu shotgun to đùng, Định Mệnh—được rèn mới tại Piltover, theo đúng ý ta—được gói chặt vào trong một mảnh da thuộc, đeo dọc theo lưng ta. Ta bắt đầu xắn tay áo.
“Rồi đường hầm ở đâu?”

Ta lặn xuống. Hi vọng là ta không cắm đầu vào một đàn cá răng cưa điên cuồng
Lạnh và tối kinh hoàng, nhưng ta vẫn cố ngụp sâu xuống. Cá, và có-chúa-mới-biết-thứ-gì đang bơi trước mặt ta, lập lòe trong tầm nhìn mờ đục.
Ở đó. Dù dưới đây đen khịt, nhưng có một mảng, đen hơn, phía sâu hơn. Cổng vào đường hầm. Có vẻ như mấy cái lá bài của T.F đã đúng. Ta bơi vào trong nó, và nhận ra rằng ở ngoài kia vẫn sáng chán. Ta giờ đây không thể thấy được bàn tay bản thân ngay trước mặt mình. Nó cũng không rộng lắm—những đầu ngón tay ta chạm vào mặt đá nhẵn nhụi ở cả hai bên trong mỗi lần quạt nước.
Liếc nhìn lại, ta nhìn thấy một vòng tròn nhỏ màu xanh đánh dấu cổng vào đường hầm. Ta tính toán rằng ta sẽ có đủ dưỡng khí để quay lại bệ mặt. Nếu bơi xa hơn nữa, ta sẽ không thể về bằng đường đó đâu.
T.F tốt nhất là nên đúng về vụ này. Nếu ta mà chết đuối ở đây, thề, ta sẽ gõ cửa nhà thằng con giời đó trong Lễ Hội Ma Ám tiếp theo.
Có ánh sáng phía trước, và ta nhanh chóng đạp vào vách hang để lao tới đó, nghĩ rằng mình đã tìm thấy lối ra… nhưng không. Nó chỉ là một con sứa khốn nạn, với mấy cái xúc tu lơ lửng như những sợi dây tời chết chóc. Có ngu mới lại gần nó.
Ta tiếp tục bơi, hoàn toàn mù lòa. Nỗi sợ hãi dần dần dâng lên như thủy triều trong đêm Huyết Nguyệt. Ta đụng phải một bức tường phía trước mặt, và trong một khoảnh khắc ta đã nghĩ đó đường cụt. Bản năng vùng vẫy, ta lao thẳng lên, tìm kiếm không khí, nhưng chỉ để đập đầu vào phiến đá phía trên. Cứng ngắt. Cái lạnh khiến cơn đau tê dại đi, nhưng ta nghĩ là trong nước có máu. Chảy máu là một việc chẳng lý tưởng tí nào đâu. Lũ cá mập có thể đánh hơi từ cách đây hàng dặm...
Ta cảm thấy bị mắc kẹt, như một con chuột nhắt kẹt trong một lu nước. Có thể lần này ta sẽ chết đuối thật.
Phải có một lối ra. Ta điên cuồng lùng sục xung quanh, sờ soạng một cách mù lòa trên mặt đá. Dường như có những vòng xoáy được khắc trên mặt đá, nhưng không có thời gian cho việc đó. Không khí trong phổi cảm giác như độc chất, và sức lực của ta đang dần lụi tàn khi ta tìm được chỗ ra.
Lao tới, ta đột nhiên thấy ánh trăng trước mắt. Bơi lên. Trồi lên khỏi mặt nước. Hít một hơi thật sâu, thật mạnh. Ta còn sống!
Rẽ nước, ta bắt đầu quan sát xung quanh. Ta đang ở trong một cái hang, một phần phía trên mở toang hướng ra bầu trời, ánh trăng đang soi rọi xuống.
Ta vươn đến một gờ đá và trồi mình lên. Lũ cua to cỡ cái đầu ta chạy vội khỏi chỗ đứng. Chúng có một chiếc càng xanh khổng lồ, vẫy vẫy trước mặt ta như kiểu chúng đang xua ta đi thì phải. Ờ, sao cũng được. Dẫu sao tao cũng có bao giờ thích bọn mày đâu. Nhưng chúng làm ta sởn gai ốc cả lên. Quá nhiều chân.
Đầu tiên, ta cởi Định Mệnh xuống và tháo bọc da. Trong ánh trăng lập lòe, ta kiểm tra nhanh lại nó, cơ chế nạp đạn và cò súng. Trông vẫn ổn. Ta nạp vào vài viên đạn, và dường như mọi thứ sáng sủa hơn rất nhiều. Thề là gần như đếch có thứ gì khiến ta phải sợ hãi khi nàng Định Mệnh đã lên đạn sẵn trong tay ta.
“Mày cũng đủ nhanh đấy,” một giọng nói cất lên.
Suýt nữa thì ta nổ cả hai phát đạn, nhưng ta nhận ra ngay đó là T.F. Hắn đã tựa lưng sẵn vào vách đá, cố tỏ vẻ vô tư và lãng tử, bởi với mấy lá bài, hắn đã chui vào đây theo một cách đơn giản hết sức có thể.
“Tao suýt nữa thì ăn phân rồi đấy, mẹ kiếp thằng ngu.” ta cằn nhằn.
“Mày chảy máu kìa,” hắn nói.
Ta thử sờ vào da đầu. Mọi lần như một, tay ta cũng đều nhuộm đỏ. “Tao vẫn còn sống.” Hi vọng là ta nói đúng.
Hắn cố tỏ ra vẻ lãnh đạm, nhưng T.F vẫn nhìn chằm chằm vào ta, và ta biết rằng hắn đang lo lắng cho ta. Ta sẽ không thừa nhận đâu, nhưng ít ra thì ta cũng trân trọng điều đó.
“Đừng có đắc chí. Tao vẫn ổn!” Ta quan sát xung quanh, nhận ra rằng những bức tường xung quanh đều được chạm khắc những họa tiết. Họa tiết Buhru. Cũng phải mất một lúc để ta nhận ra chúng.
“Nhiều rắn đấy,” ta nói, nhắc lại một điều khá hiển nhiên.
Hừ. Có lẽ rốt cuộc thì cũng đáng để mò kim đáy bể đấy.
“Mày vẫn nghĩ đây là truyền thuyết sao?” T.F hỏi.
Ta chỉ trả lời bằng tiếng khẽ gầm gừ. Ngay cả khi ta đã bắt đầu tin, ta cũng sẽ không cho hắn sự thỏa mãn đấy đâu.
Thấy đấy, thứ mà bọn ta được thuê để kiếm là một truyền thuyết ở Bilgewater, và một người với đầu óc bình thường sẽ cho rằng nó sẽ chẳng khác gì đi tìm Kẻ Nghịch Thủy Triều, hay huyền thoại về các Triệu Hồi Sư.
Ngai Vàng Vực Thắm.
Tương truyền rằng ai đội chiếc vương miện lên đầu sẽ có quyền điều khiển Tà Thú Đáy Vực. Và ai điều khiển Tà Thú Đáy Vực sẽ có thể kiểm soát vùng nước xung quanh Quần Đảo Mãng Xà. Kiểm soát được chúng, và ngươi nghiễm nhiên kiểm soát được Bilgewater.
Đó là lý do Hoàng Tử lại khao khát được chạm tay lên nó đến thế. Nàng Fortune của chúng ta sẽ chẳng thể làm gì để phế truất hắn nếu hắn đã sở hữu Ngai Vàng Vực Thẳm.
“Vậy thì thánh điện ở đâu?” ta hỏi.
“Có một con độc đạo đi xa hơn ở đằng kia” T.F nói, chỉ tay vào sâu hơn trong hang động. “Có lẽ là nó thông qua chỗ kia.”
“Tao hy vọng là không còn tiết mục bơi lội gì ở đây,” ta lầm bầm.

“Độc đạo” mà TF tìm thấy hóa ra chỉ là một vết nứt nhỏ trên vách đá. Hắn toàn da bọc xương nên dễ dàng luồng qua nó chẳng khác gì một con cá bơn. Ta thì cơ bắp vạm vỡ hơn—và theo ta thì cũng đáng ngưỡng mộ hơn, nên một vài chiếc cúc áo đã bung mất.
Ta gầm gừ và chửi thề trong hơi thở hổn hển, mẹ kiếp cái tô súp hải sản mà ta đã ngốn vài giờ trước chứ, trong khi T.F ra hiệu cho ta im lặng, với ngón tay trỏ đặt trên môi hắn.
Ta cuối cùng cũng đã băng qua sau một tiếng hự to, suýt nữa thì khuôn mặt bị kẹt lại. Và rồi cái mùi ấy tạt vào ta như một cú đấm. Nó không khác gì cái mùi ruột cá thối trên cảng lò mổ. Chúng khiến ta ứa cả nước mắt. Đồng thời cũng gợi lại những kỉ niệm không đẹp đẽ gì cho lắm.
Ánh trăng rọi xuống thông qua một khoảng trống nhỏ trên trần hang, nhưng mọi thứ vẫn rất tối. Phải mất một lúc lâu ta mới nhận ra đống xác thuyền và rác rưởi chất đầy khắp nơi. Nó trông như thiên đường của một gã nào đó thích tích trữ, với đủ thể loại rác rưởi vứt đi nhét đầy khắp mọi ngõ ngách.
Cái hang này to hơn cái ngoài kia, và mọi vách đá—ừm, mọi vách đá không bị mấy món đồ rác rưởi che mất—đều được bao phủ bởi những bức chạm khắc Buhru. Rất nhiều rắn. Ta có thể cảm thấy được thứ không khí ở đây...
Có một hồ nước đen khịt ở một bên hang, dường như là cũng liên thông với cái hầm chết tiệt đã cố dìm chết ta, nhưng chả có cách nào mà đống rác này lại dạt vào trong đây được cả. Chắc hẳn là phải có một gã nào đó đã mang chúng vào trong này. Thật ra, chúng cũng được sắp theo một thứ tự kì lạ nào đó, dù cho thứ tự đó có lẽ cũng được nghĩ ra bởi một cái đầu óc vặn xoắn điên loạn như một cái nút thắt của đám thủy thủ.
Có mấy cái thùng, hộp, rương, và cả lưới cá. Mồi câu và đống lao móc đã gỉ, mấy sợi dây tời đã mục rữa. Một đống vỏ sò và đá cuội được xếp thành những chồng kì lạ, và những lọ đựng một thứ dung dịch hôi hám và những thứ có-chúa-mới-biết được xếp thành hàng trên những cái kệ được làm từ gỗ trôi.
Một mỏ neo gỉ sét được đặt dựa vào tường, và một tượng thuyền bám đầy san hô—một thiếu nữ xinh đẹp với chiếc đuôi cá—được nhét vào giữa hai hòn đá. Lớp sơn bong tróc khiến ta có cảm giác như làn da của cô ta đang bong ra.
Nhưng cột buồm đan chéo nhau trên đầu như một cái mái nhà xập xệ. Rong rêu treo lơ lửng trên chúng, bên cạnh những gói xương cá và cành cây xoay mòng mòng, được buộc lại bởi dây tời và tóc, và những mảnh vải rách rưới của một cánh buồm mục rữa.
Và ở đó, trong bóng tối phía ở phía bức tường đằng xa, hơn nửa bị che phủ bởi mấy món đồ vặt vãnh, có một thứ gì đó thật thảm hại trông giống...
“Mày có nghĩ là nó không?” ta thì thầm.
Nó trông như một tế đàn, được chạm nên từ chính vách đá. Trông giống như một đàn rắn biển khổng lồ—rắn vây đỏ, rắn sọc xanh, rắn gỗ mun, cả đống luôn. Chúng được bao quanh bởi hàng trăm ngọn nến đã tắt, sáp chảy khắp mọi nơi, cùng với hàng tá những chiếc đầu lâu của đủ loại thú dữ. Cũng có không ít đầu lâu người thấp thoáng trong đó.
“Ngai Vàng Biển Sâu.” Giọng T.F toát ra sự kinh ngạc. Gã luôn là một kẻ mê tín mà, đúng kiểu lũ dân sông nước luôn. “Được rồi, nó đó, được chưa.”
T.F đã bắt đầu tìm đường đến chỗ thánh điện. Ta từ từ theo sau, cẩn thận dõi theo mấy chỗ tối. Cảm giác như đây chính là lúc một thứ gì đó tệ hại xảy ra. Thường thì mọi thứ luôn diễn ra như thế với bọn này. Dĩ nhiên, ta cũng phải theo dõi T.F.
“Mày đừng có tìm cách cuỗm mất cái vương miện đấy,” ta gằn giọng. Hắn liếc nhìn ta, nhưng không thèm hồi đáp.
Ta phát hiện ra thứ gì đó, và nó khiến tim ta ngưng lại trong một lúc.
Có một mụ già đang nằm trên một phiến đá cao gần đó. Suýt nữa thì bỏ qua bà ta, ta đã lướt mắt qua mà không nhận ra điều ở ngay trước mắt mình.
”Quái quỷ,” ta thở hắt. Giờ thì nhịp tim ta đã trở lại, đấm thùm thụp như tiếng trống trận Noxus.
Bà ta nằm ngửa, hai tay đặt trước ngực, như một bức tượng người chết vậy. Thật ra, với vẻ ngoài như vậy, cũng có thể bà ta đã chết, hoặc cũng hấp hối lắm rồi. Bộ quần áo mục rữa gần nửa, trông bà ta như một con cá để ương vài tuần. Có thể do ánh sáng, hoặc ngược lại, nhưng trên người bà ta là các mạch máu đen thẫm.
“Này, có một mụ già ở đây,” ta gằn giọng.
T.F đã đến chỗ thánh điện, và đang xem xét nó . “Hở?” hắn lơ đễnh hồi đáp.
“Tao nói là có một mụ già ở đây,” Ta nhắc lại, lần này lớn hơn, đồng thời cũng liếc ra sau lưng xem bà ta có tỉnh dậy không. À, không.
T.F liếc qua nhìn. “Bả đang làm gì vậy?”
“Ngủ,” ta thì thầm. “Hoặc ngủm rồi. Tao đếch biết.” ta thử ngửi mùi bà ta và suýt nữa thì nôn. “Nhưng bả thối không tả nổi. Nên chắc là chết rồi.”
T.F lại thể hiện khuôn mặt lo lắng, với hàng chân mày chạm nhau ngay giữa trán. Hắn thường đưa ra khuôn mặt ấy mỗi khi cầm trong tay bài thực sự xấu, hoặc thấy bộ áo khoác siêu đắt đỏ vừa mới may ở Piltover của mình bị vấy bẩn.
“Tao nghĩ là… cứ kệ mẹ bả đi?” hắn nói.
Thông minh ghê ha. Ta đổi chủ đề. “Tìm thấy vương miện chưa?”
”Đếch.” Hắn quay lại chỗ thánh điện. “Nó lẽ ra phải ở đây…”
Ta cũng đi đến chỗ hắn, định tìm kiếm phụ hắn, trong khi mụ già ngáy to đằng sau ta. Ta giật mình quay lại, khẩu súng đã lên nòng, nhưng mụ chả thay đổi gì. Thôi thì cũng biết là mụ còn sống.
Ta xem lại thứ mình vừa làm, và hướng mũi súng lên trời. Ta phải làm gì đây, bắn bà ngoại già này sao? Dù bà ta hôi thối đến mức nào, việc đó cũng khiến cho một đống tai họa ập lên đầu bọn ta.
Quay lưng lại, ta cẩn thận trông chừng con dơi già ấy, đề phòng thôi. Và rồi ta dẫm lên một thứ gì đó. Một thứ biết di chuyển. Một thứ đang gào thét không ra hơi.
Có thêm một đứa nữa ở đây, hoàn toàn bị chôn vùi trong đống vải buồm mục rữa.
Hắn quờ quạng bỏ chạy như một con chó bị dồn đuổi, cặp mắt đảo loạn trong sợ hãi. Trông quần áo và khuyên tai của hắn, hắn là một thủy thủ, nhưng là một tên bị bỏ đói đã lâu. Ta nhận ra một chiếc còng gỉ, kết nối với một sợi xích, được xích vào một bức tường cạnh đó.
Rõ là hắn không phải một mối nguy, ta hạ Định Mệnh xuống. Ta gật đầu với T.F, hắn đã quay lại, những lá bài rực cháy sẵn sàng.
“Bình tĩnh nào,” ta nói với hắn, đưa một tay ra. “Không làm hại ngươi đâu.”
“Thả tôi ra khỏi đây,” hắn thầm thì, mắt đảo giữa ta và mụ già đang ngủ. “Tôi không muốn làm vật tế. Tôi được cử đi để tìm vương miện! Thả ta tôi khỏi đây, thả tôi ra, thả tôi—
Giọng hắn ngày càng trở nên lớn hơn khi nỗi sợ dâng trào. Chẳng ai biết thằng nhóc tội nghiệp này đã bị xích ở đây bao lâu? Hay vì sao?
“Bình tĩnh nào thằng oắt,” ta nói, cố tỏ ra trầm tĩnh.
“—cứu tôi ra khỏi đây, cứu tôi—”
“Bịt mồm hắn đi,” T.F rít lên.
“Sao mày thích ra lệnh cho tao thế nhỉ?” Ta cắt lời, quay mặt về phía hắn và chỉ tay vào hắn. “Tao xử lý được, được chưa? Giống như như hồi—”
Đó là một kĩ thuật đánh lạc hướng cơ bản, thứ mà ta học được từ T.F. Thu hút sự chú ý của mục tiêu bằng một động tác bất chợt, khiến họ chú ý đến chỗ mà ngươi muốn họ chú ý, và họ sẽ không thấy được thứ ngươi không muốn họ thấy.
Trong trường hợp này: ánh mắt hoảng loạn của tên tù nhân chuyển qua T.F, và hắn không nhận ra ta đang bước lại gần trước khi quá muộn. Ta đập báng của Định Mệnh thẳng vào mặt hắn. Không phải để giết hắn, chỉ là để tặng cho hắn một giấc ngủ ngon thôi.
Ta liếc nhìn ra sau lưng, con sẻ già ấy vẫn chưa nghe thấy gì. Có lẽ là mụ điếc đặc. Dù vậy, tên thủy thủ dường như khá khiếp đảm. Và ta bắt đầu cảm thấy có điều gì rất không ổn về mụ già đó.
“Hay lắm,” T.F nói.
Ta gật đầu với hắn, và khụy xuống cạnh bên tên tù nhân đã bất tỉnh. Hắn trông khá quen.. “Tao nghĩ là tao nhận ra tên này,” ta nói. Ta lần mò trên áo hắn, cởi một vài chiếc nút. Đúng như ta dự đoán, nó đây—một hình xăm nhỏ, một cặp đại bác cầm tay bắt chéo. “Đúng thế, hắn là thủ hạ của Nàng Fortune. Cấp bậc có vẻ cũng cao đấy. Đoán là ả sẽ trả hậu hĩnh nếu ta trả hắn về.”
T.F. thốt lên trong phấn khích. “Có vẻ Hoàng Tử không phải là đứa duy nhất tìm ngai vàng.”
“Có lẽ vậy. Không biết ả ta có trả nhiều hơn không nhỉ?”
“Tìm thấy nó trước đi rồi tính,” hắn nói.
“À, hắn nói gì về vật tế ấy nhỉ?”
Theo ta nhận thấy, nếu mụ già đó có thể để trấn áp tên thủ hạ của Miss Fortune, mụ ta phải được giúp sức—có nghĩa có ai đó đang ở gần đây—hoặc là mụ ta ghê gớm hơn so với vẻ ngoài. Dù gì đi chăng nữa, ta cũng không muốn ở lâu.
“Phắn khỏi đây thôi,” ta lẩm bẩm. “Tao thấy không ổn lắm.”
“Nhưng bọn mình đã đến rất gần rồi!” T.F nói. “Nó ngay đây, tao biết! Cho tao chút thời gian nữa.”
Cảm giác lạ lắm, khi ta muốn bỏ còn hắn muốn ở lại. Thường khi thì không phải như thế.
Ta liếc nhìn mụ già một cách bất an, nhưng miễn cưỡng gật đầu. “Được thôi. Nhưng nhanh lên hộ cái.”
T.F ngồi thụp xuống sàn, và bắt đầu dàn bài ra trước mặt mình, úp xuống, sắp xếp đối xứng. Ta mặc hắn, và bắt đầu chĩa súng ra xung quanh, hướng nòng Định Mệnh vào những khoảng tối, và cẩn thận hơn với từng bước chân. Ta phát hiện một vài đồng xu đã gỉ xanh, và ta thực sự ngạc nhiên khi phát hiện trong đó còn có cả vài đồng Kim Xà. Ta lặng lẽ nhét chúng vào túi, khẽ liếc nhìn T.F để đảm bảo rằng hắn không để ý.
“Mày có chắc là nó ở đây không?” ta hỏi.
T.F giơ lá bài lên để ta cũng có thể nhìn thấy nó. Bức hình trông như… ừm, như một chiếc vương miện vàng dưới hình dạng của một con rắn.
“Hình như tao chưa từng thấy lá này bao giờ,” ta nói.
“Tao cũng vậy,” T.F đáp lại “Nó chưa từng tồn tại, cho đến bây giờ. Chiếc vương miệng đang ở đây. Ở đâu đó quanh đây.”
Ta chưa bao giờ thực sự hiểu đống bài của hắn.
Ta tiếp tục tìm kiếm, nhưng sau một lúc lâu, ta bắt đầu có cảm giác như mình đang bị theo dõi. Không thể nói là ta thích cảm giác này được. Ta quay lại, nhìn vào trong bóng tối. Có gì đó cử động ở ngoài rìa tầm nhìn của ta, nhưng mọi thứ chợt yên ắng khi ta tập trung vào hướng đó. Ta cố lắc đầu. Có lẽ chỉ là mấy con cua. Dẫu sao, việc rời khỏi đây cũng là một ý tốt, trước khi mọi chuyện quá muộn.
T.F tự lẩm bẩm với bản thân hắn, và rồi nhấc mấy lá bài lên. Hắn nhìn quanh, sững sờ. “Mày có cảm giác rằng bọn mình đang bị theo dõi không vậy?”
Thì ra là không chỉ có ta cảm thấy thế. Ta không biết là liệu điều này khiến ta cảm thấy tốt hơn hay tệ hơn. Ta phát hiện một chuyển động nữa, và ta chú ý vào một chiếc xô úp ngược trên mặt sàn.
Nó vừa - nó vừa di chuyển?
Ta vẫn tiếp tục tập trung vào nó, và sau một lúc lâu, chiếc xô lại nhích đi thêm một khoảng nữa trên sàn, chỉ một chút thôi, và rồi ngừng lại. Ta đã từng thấy vài thứ kỳ quái trong đời rồi, nhưng thề là chưa bao giờ nghĩ đến một cái xô lén lút cả.
Ta bước gần hơn, nghiêng người về phía nó. Có một lỗ thủng bên thành xô, và nó trông như… đúng thế, có một con mắt đang nhìn ra, thẳng vào mặt ta. Một con mắt to, vàng, chằm chằm.
“Tóm được mày rồi nhé—” ta nói, chĩa Định Mệnh vào nó.
Thấy mình bị lộ tẩy, thứ gì đó ở trong lật ngược chiếc xô lại và bỏ chạy. Ta suýt nữa đã nổ súng, trước khi nhận ra nó chỉ là một con bạch tuộc chết tiệt. Ta nghe tiếng T.F cười khúc khích khi sinh vật nhầy nhụa đấy trườn trên sàn hang, nó lao đi với một tốc độ đáng kinh ngạc.
Nó chỉ có một con mắt, và vẫn nhìn chằm chằm vào ta trong khi nó trườn lùi về sau.
“Đó… không phải là thứ mày thấy mỗi ngày, nhỉ,” T.F nói.
Thứ sinh vật bố đời xanh lè đấy chạm đến lên vách hang nơi mụ già đang ngủ. Nó vươn cặp xúc tu và bắt đầu trèo lên.
“Ê, đừng để nó đánh thức mụ ta!” T.F rít lên.
“Thế mày muốn tao làm gì, bắn nó à? Mày nghĩ làm thế chắc mụ ta không thức?”
T.F đã sẵn sàng trong tay một lá bài, nhưng hắn không ném đi, có lẽ là hắn không muốn liều việc ném trúng mụ già. “Tao không biết. Bắt nó hay làm gì đi chứ!”
“Tao đâu có ngu mà chạm vào một con bạch tuộc một mắt, Tobias.”
Hắn ngay lập tức phản ứng khi ta gọi hắn bằng tên thật. “Tao đã nói với mày là đừng gọi cái tên đấy nữa mà,” hắn cằn nhằn. “Giờ nó là Twisted Fate, được chứ?”
Ta đảo mắt. “Đếch bao giờ nhé. Nó nghe giả tạo và ngu ngốc và—”
Mụ già kia bỗng ngáy to, và bọn ta ngay lập tức ngừng cãi vã. Bọn ta quay lại và nhận ra sinh vật nhầy nhụa kia đã bám chặt vào mặt mụ già bằng mấy cái xúc tu của nó. Nó phát ra một thứ âm thanh sởn gai ốc khi quấn lấy đầu của mụ ta, như một chiếc mũ ghê tởm. Đôi mắt vàng của nó chớp chớp nữa chứ.
“Không ổn rồi,” ta lầm bầm.
Và rồi mụ già ngồi bật dậy.

Một lúc sau, ta cũng đã có đủ bình tĩnh để nhận ra rằng âm thanh mà ta đã hét lên khi mụ ta bật dậy có hơi chói tai hơn mức mà ta có thể tự hào. Nhưng công bằng mà nói, tiếng thét của T.F lúc đó nghe còn nhục mặt hơn của ta nhiều.
Đôi mắt của mụ già mở to. Nó trắng đục như sữa. Dù mù lòa, nhưng mụ ngay lập tức quay ngoắt về phía bọn ta.
“Đám chuột nhắt, rình mò và trộm cắp sao?” mụ nói. Giọng nói của mụ ừm, đúng như hình dung của ngươi giọng nói của một mụ phù thủy biển già cỗi với một con bạch tuộc trên đầu đấy. “Đám chuột quậy phá, chẳng có gì ở đây cho bọn ngươi đâu, ôi không…”
“Đứng yên đấy nào, mụ già.” ta nói, trong khi bà ta vùng đôi chân để bước xuống mặt sàn. Định Mệnh đang chĩa về phía mụ ta, nhưng mụ dường như không quan tâm. “Bọn ta không phải là chuột, và bọn ta cũng không phải ăn trộm. Ừm, bọn ta trộm, nhưng ừm—”
Ta nhìn sang T.F.
“Giúp tao với nào?” ta gầm gừ.
“Bọn ta đang tìm Ngai Vàng Vực Thẳm,” T.F nói. “Nếu bà vui lòng đưa nó cho bọn ta, thì mọi thứ sẽ êm đẹp thôi.”
Mụ phù thủy già đứng dậy nhờ sự giúp sức của một chiếc gậy hình đầu rắn. Quả là ta không để ý đến nó luôn đấy. Mụ quay đôi mắt trắng dã sang nhìn bọn ta, và nở một nụ cười móm mém. “Lũ chuột ngu ngốc,” mụ nói, nhỏ dãi. “Đã chết đuối rồi. Bị dâng tế cho Tà Thú Đáy Vực mà còn không biết.”
Rồi mụ nện chiếc gậy xuống mặt sàn. m thanh vang vọng khắp trần hang, và những đợt sóng lan ra khắp bề mặt vũng nước đen. Một tiếng lách cách, những chiếc gậy và cành cây gãy đổ, bức tường trước mặt bọn ta đột ngột sống dậy trong thoáng chốc.
Những thứ gì đó bước ra từ bóng tối xung quanh.
Những thứ to lớn.
“Lũ cua,” ta lầm bầm. “’Dĩ nhiên phải là cua rồi.”
Nhưng chúng không phải là cua thường—dù ta cũng không bao giờ xem lũ nhiều chân đấy là bình thường ngay cả ở những lúc bình thường nhất, nhưng quả là chúng rất lạ. Chúng to cỡ những chiếc xe hàng nhỏ, và chúng dường như muốn cắt rời tứ chi của bọn ta.
Chúng bò về phía bọn ta, huơ huơ chiếc càng khổng lồ. Phải thừa nhận là chúng trông nguy hiểm hơn nhiều với chiếc càng đủ lớn để cắt đôi một người. Nhiều con nữa trồi lên từ mặt nước, rít lên và huơ càng, bò dần về phía hang.
”Ăn cái này nè, đồ con hoang…!” ta gầm lên, và xả cả hai viên đạn về phía con đầu tiên tiến lại.
Tiếng nổ thật chói tai, và nó ném con cua khổng lồ ngược về phía sau bằng một tác động khá là thỏa mãn. Một chớp đỏ lóe lên, và T.F ném một lá bài lướt xuyên qua không khí vào trong đám bọn chúng. Nó phát nổ, ngọn lửa ma thuật bao trùm và thiêu cháy một số con.
Ta vừa kịp nạp đạn để thụt một phát nữa vào một con quái vật khác, khiến chiếc càng to của nó vỡ tung. Vỏ và thịt cua văng khắp nơi, và sinh vật khổng lồ choáng váng. Phát đạn thứ hai của ta thiêu cháy cặp mắt và bộ hàm của nó, khiến nó bật ngửa. Bắn gắt vậy thôi chứ, Định Mệnh.
Một con cố vòng ra sau T.F, và ta phải bắn một phát súng cảnh báo. Hắn nhanh chóng cúi người, luồng qua bên dưới chiếc càng, và ném ra một lá bài khác. Nó lóe ánh sáng vàng khi chạm vào người con quái vật. Con cua ngay lập tức đứng yên, bị đóng băng tại chỗ. Nạp lại đạn, ta bước đến và thổi tung nó xuống vũng nước, thịt cua bay tứ tung.
“Phắn lẹ thôi!” ta hô to.
”Phải tìm được chiếc vương miện trước đã” T.F. đáp lại, vừa xoay người né một cái càng cua.
Cảm giác như hắn đang muốn chứng tỏ bản thân vậy. Ngươi thấy đấy, thằng T.F này có một lịch sử phắn cực lẹ mỗi khi tình hình không ổn, và để ta lại dọn dẹp chiến trường. Nhưng hắn đã hứa rằng hắn sẽ không làm như thế nữa, và ta nghĩ rằng giờ đây hắn sẵn sàng chết để chứng tỏ điều đó. Ừm, ngu thật. Đáng ngưỡng mộ đấy, nhưng óc lợn.
“Cũng chẳng được gì nếu như bọn mình chết!” ta gào lên.
Ta cố bắn một phát nữa, nhưng một con cua chết tiệt đã kẹp chặt Định Mệnh bằng chiếc càng của nó trong lúc ta bóp cò. Chúng khiến đường đạn lệch đi, và ta bắn thẳng vào Ngai Vàng Vực Thẳm, khiến nó vỡ tung.
Mụ phù thủy biển—nãy giờ kêu lạch cạch như một loài ma quỷ—rít lên trong giận dữ.
Ta vật lộn với con cua đang giữ Định Mệnh trong chiếc càng của nó. Ta quyết không bỏ ra, nhưng nó cũng chẳng hề nao núng.
Ta gầm gừ. “Súng của tao, đồ quái thú—”
Một cặp bài lướt xuyên qua không khí, găm vào hai hốc mắt của con cua. Chúng khiến nó phải bỏ ra, quờ quạng trong mù lòa, tông vào tường và lũ cua khác.
Ta gật đầu cảm ơn, nhưng T.F không nhìn thấy. Hắn đang nhìn chằm chằm vào nơi đã từng là điện thờ. Giờ nó chỉ còn là một đống đá vụn. Dường như nó rỗng, và phát bắn lạc đạn của ta đã khiến nó vỡ toang.
“Có gì mà nhìn trong đấy?” ta hỏi.
Có xác một ai đó bị vùi chôn bên trong. Chẳng còn gì ngoài những mảnh xương khô khốc nằm trong đống đổ nát. Có một chiếc vương miện xỉn màu vẫn nằm trên hộp sọ, một chiếc vương miện ánh kim, và được rèn thành hình dạng một con rắn...
Ta liếc nhìn sang chỗ mụ phù thủy. Mụ trông cực kỳ bực dọc với việc đó. Rủa chửi, mụ bắt đầu bay lên không trung. Trong một vài giây ngắn ngủi, ta đã tự hỏi rằng liệu cú đập đầu ấy có hơi nặng hơn ta nghĩ không, và ta phải chớp mắt một vài lần để đảm bảo rằng ta không nhìn nhầm.
Nhưng ta không tưởng tượng ra cái đó. Mụ ta đúng là đang lơ lửng cách mặt đất cả thước.
“Cái quái,” ta thốt lên.
Với một tiếng thét, mụ phù thủy thúc chiếc gậy về phía bọn ta, và một lỗ hổng mở ra trong không trung. Nghe có vẻ không hợp lý chút nào, nhưng ta đã cố hết sức để mô tả nó rồi đấy. Cái lỗ to cỡ một viên đạn đại bác, ban đầu thôi, nhưng rồi nó nhanh chóng mở rộng, như một lỗ thủng trên mạn thuyền. Một dòng nước biển buốt giá tràn vào bên trong, khiến ta ngã khụy xuống vì mất thăng bằng.
Có thứ gì đó đang chuyển động bên trong cái hố, và một nhãn cầu màu vàng khổng lồ hiện ra, cái nhìn đầy vẻ giận dữ. Nó trông y hệt con mắt của con bạch tuộc gắn trên đầu mụ phù thủy, nhưng to hơn hàng trăm, hàng ngàn lần. Ta có cảm giác như nó đến từ một nơi sâu, sâu thẳm dưới lòng đại dương tối tăm, nhưng nó ở đây, nhìn bọn ta như thể bọn ta đang là một món món mồi câu thơm ngon.
Và rồi con mắt rời đi, hai chiếc xúc tu khổng lồ luồng qua cái lỗ. Ta xả cả hai phát đạn, cắt rời được hẳn một cái xúc tu. Nó rơi xuống sàn, phun đầy máu xanh khi vẫn còn vẫy đập và uốn éo. Cái vòi con lại quấn chặt lấy một con cua khổng lồ, dễ dàng nhấc bổng nó lên và kéo nó vào trong cái lỗ.
Mụ phù thủy già vẫn lơ lửng tại chỗ, với một nụ cười hiểm ác. Dường như mụ sẽ vui lòng lùi lại và để con quái vật của mình xử lý nốt bọn ta.
“Lấy cái vương miện chết bầm đó đi!” ta hét lên, cố đứng dậy và dò dẫm trong đống vỏ cua vẫn còn tươi mới.
Một lần nữa con mắt vàng lại ghé vào cái lỗ, nhìn xuyên qua. Nó nhìn về phía T.F, nhưng ta gào lớn và vẫy tay, và tròng mắt của nó bắt đầu hướng về phía ta.
Một cái vòi chọc xuyên qua và quấn chặt lấy ta. Nó gần như đã bóp vụn hạ sườn ta khi siết lại và nhấc bổng ta lên. Nó bắt đầu kéo ta vào trong, nhưng trước khi ta bị kéo xuyên qua cái lỗ đến một chốn có-chúa-mới-biết-là-đâu, ta đã kéo được theo Định Mệnh, và nhắm thẳng vào con mắt.
Dường như sinh vật đó có một trí tuệ nhất định, ít ra là thông minh hơn những gì ta mong đợi từ một con quái vật biển khổng lồ. Nó thấy Định Mệnh và nhận ra thứ gì bên trong đang chào đón nó, bởi con mắt đã nhanh chóng rụt lại. Nhưng chưa đủ nhanh đâu cưng. Định Mệnh gầm vang, khạc ra lửa đỏ và thuốc nổ, rồi ta nghe thấy—cảm thấy thì đúng hơn—tiếng gầm đau đớn của con quái vật khổng lồ.
Ta đột ngột bị thả xuống sàn. Nước vẫn liên tục tràn vào hang, khiến ta bị cuốn lộn nhào cho đến khi đâm sầm vào vách tường. May thay, ta vẫn đang giữ Định Mệnh trong tay—ta chưa hứng thú gì mấy trong việc quay lại Piltover và làm một cây khác đâu—nhưng nhiều khả năng là nó đã bị thấm một ít nước trong cú lộn nhào của ta.
Ta gượng dậy ho sặc sụa. Cảm giác như ta vừa uống cạn một nửa Vịnh Bilgewater vậy. Ta thấy T.F đã lấy chiếc vương miện ra khỏi bộ hài cốt, và hắn nhanh chóng gật đầu ra hiệu cho ta.
Đến giờ phắn rồi,” hắn nói.
Ta cố đứng dậy. Dường như, ít ra là trong lúc này, khi con quái thú bên trong cái lỗ lùi lại, nước đang tràn vào ngày càng nhiều hơn. Cái hang giờ đã ngập đến đầu gối, và rác rưởi trôi lềnh bềnh khắp nơi. Nhưng con cua khổng lồ—một vài con vẫn ở đây—đang bỏ chạy hoảng loạn, chính chúng cũng không hiểu điều gì đang xảy ra.
Tên tù nhân của mụ phù thủy giờ cũng đã tỉnh. Hắn trèo lên một hòn đá, và nhìn ra xung quanh, khiếp đảm tột cùng. Không thể trách hắn được. Hắn vẫn đang bị trói, và thế thì không lý tưởng chút nào trong tình trạng nước dâng lên như bây giờ.
Ta nhắm Định Mệnh vào sợi xích và bóp cò—ít ra thì đó là điều mà ta có thể làm được để cho anh bạn này một cơ hội sống sót—nhưng chẳng có gì xảy ra cả. Có vẻ như nước đã làm nó hư hỏng chút gì rồi.
“Xin lỗi, anh bạn,” ta nói với một cái nhún vai.
Mụ phù thủy đã thấy T.F cầm chiếc vương miện trong tay, và mụ ta rít lên giận dữ. Mụ bắt đầu lơ lửng về phía bọn ta, những đầu ngón chân lướt đi trên mặt nước biển giá buốt.
T.F. ném chiếc vương miện cho ta, và ta chộp lấy nó một cách ngạc nhiên.
“Mày đưa nó cho tao làm gì?” ta phải gào lên để hắn có thể nghe trong khi dòng nước đang gầm thét như thế này.
“Chắc là mày không muốn mất dấu nó đúng không,” hắn gào lại. “Chắc mày cũng không muốn tao biến đi cùng nó.”
Ta suy nghĩ trong một chốc. Phải thừa nhận là ta cũng có chút ngạc nhiên, và có chút ấn tượng nữa. Nếu T.F cứ thế này, ta có lẽ sẽ phải nhìn nhận lại về hắn.
Dù vậy, giờ đây mụ phù thủy đang nhắm đến chỗ ta, và hình như mụ ta đang lẩm bẩm một lời nguyền rủa nào đó. Như ta đã nói, ta không phải là một thằng mê tín, nhưng ta cũng không có bị ngu đâu. Ta ném trả chiếc vương miện cho hắn.
“Tao tin mày,” ta hét lớn. “Tạm thời là vậy.”
Ta liếc nhìn mụ phù thủy một lần nữa. Phía sau mụ, con mắt khổng lồ màu vàng đang nhìn qua cái lỗ một lần nữa. Ta thoáng cảm thấy thỏa mãn với vết thương đỏ thẫm mà Định Mệnh đã tặng cho nó.
T.F ném ra ba lá bài, mỗi lá đều rực cháy ánh sáng ma thuật, nhưng mụ phù thủy đã giơ tay chống đỡ. Một trường lực vô hình đẩy lùi chúng, khiến găm trượt mục tiêu hoàn toàn. Mụ ta đang bay đến ngày càng gần hơn.
Mụ nở một nụ cười móm mém, làm lộ ra hàng nướu răng đã ruỗng mục. Dường như mụ nghĩ rằng mình đã tóm gọn bọn ta.
“Đi đi, biến ra khỏi đây!” ta hét lớn về phía T.F, và vắt Định Mệnh lên lưng mình. Không có thời gian để bao bọc hay chống nước cho nó nữa. Nếu ta thoát khỏi đống lộn xộn này, nó hẳn sẽ cần được tân trang.
“Hẹn gặp lại ở phía bên kia,” T.F. nói, với một cái nháy mắt. Ta cũng tin hắn. Ai mà nghĩ đến cơ chứ?
“Tóm chúng!” mụ phù thủy gào lên.
Mụ chỉ chiếc quyền trượng về phía bọn ta, và con quái thú khổng lồ lao lên, cố chui ra khỏi cái lỗ. Một đống những xúc tu trồi ra, vươn đến chỗ bọn ta.
Đến lúc phắn rồi. T.F bắt đầu làm trò của hắn, những lá bài nhảy múa, tập trung vào lối thoát của bản thân hắn. Và rồi hắn cùng chiếc vương miện biến mất.
Đến lượt ta. Ta lao đến và nhảy vào cái hố nước đen đặc, trong khi mấy cái xúc tu đang đuổi sát phía sau. Hy vọng là nó sẽ kết nối với đường hầm mà ta đã bơi vào đây, không thì cú nhảy anh dũng này sẽ công cốc cả.
Ta chạm mặt nước, lặn thật sâu, và bắt đầu bơi. Không thể thấy bất cứ thứ gì đáng lưu tâm, nhưng giờ không phải lúc để cẩn thận. Nếu ta đâm sầm vào tường thì cũng chịu thôi. Giờ thì việc đó cũng chỉ là cỏn con so với đống vấn đề đang săn đuổi ta.
Ơn trời là phán đoán của ta chuẩn xác. Ta ngụp dưới một hòn đá sẫm màu, và trồi lên ở phía bên kia. Quay trở lại cái hang đầu tiên, ta có thể nghe thấy tiếng mụ phù thủy rít lên trong giận dữ, vang vọng khắp trần hang. Bất kỳ lúc nào, đám xúc tu kia cũng có thể luồng qua và kéo ta lại.
Hít một hơi thật sâu, ta tiếp tục lặn xuống một lần nữa.

Ta đã trồi lên trên mặt biển. Đường ra quả là dễ dàng hơn hẳn khi đã biết mình phải đi đâu, nhưng trong kia ta suýt nữa đã ngủm.
Một bàn tay nắm lấy ta và kéo ta lên. Sau một vài câu lẩm bẩm chửi rủa, cả T.F và ta nhanh chóng trèo lên chiếc thuyền, Intrepid
“Sao mày nặng vậy?” hắn rên rỉ.
“Còn mày sao yếu ớt vậy?” ta đáp lại.
Ta chẳng thể biết rằng liệu mụ phù thủy hay con thú nuôi của mụ có còn đuổi theo bọn ta không, nhưng bọn ta cũng không ngu đến mức đứng lại và đợi câu trả lời. Ta chộp lấy mái chèo và bắt đầu khua nó.

Một chiến thuyền đã chờ sẵn bọn ta, ngay bên kia Bãi Góa Phụ. Nó như một chiếc thuyền buồm nhẹ bóng loáng, được thiết kế thiên về tốc độ—chiếc Nữ Vương Thăng Hoa. Nó quả là một chốn xa hoa, được trang trí bởi những lá vàng và một bức tượng một người phụ nữ đầu mèo, có lẽ là nữ vương mà cái tên đã nhắc đến.
“Chắc là Hoàng Tử đang nóng lòng cầm trong tay món quà này lắm, nhỉ?” T.F nói, trong khi chiếc thuyền buồm hướng về phía bọn ta.
“Chắc là vậy.”
Chỉ trong vài phút, Nữ Vương đã kề cập bọn ta. Một tấm lưới được quăng xuống, và những bàn tay hăm hở nhanh chóng kéo bọn ta lên một khi bọn ta đã bám chặt vào nó.
Hoàng Tử và hạm đội của hắn đã đứng sẵn để chào đón bọn ta. Tên Hoàng Tử này là kẻ tên thực sự cổ quái. Tự xưng là hậu duệ của những vị vua vùng sa mạc Shurima, và hay nhảy múa khi đội một cái bánh sơn vàng đặt trên mặt. Dù sao thì hắn luôn trả công hậu hĩnh.
“Các ngươi tìm được chứ?” Hoàng Tử hỏi. Hắn thực sự rất háo hức, đến nỗi không ít lần liếm láp cái mép vàng chóe của mình.
“Ngươi chuẩn bị vàng chưa?” ta hỏi.
Hai cái túi vàng, chất đầy Kim Xà, được ném ra trước mặt bọn ta. Ta ngồi xuống để kiểm tra nó. Khá nặng đấy. Như ta đã nói, Hoàng Tử luôn trả công hậu hĩnh.
T.F giao cho hắn chiếc vương miện, và Hoàng Tử cầm lấy nó, đầy sự tôn kính. “Vương Miện Vực Thẳm,” hắn thầm thì. Hắn nhìn ngắm nó thêm một lúc lâu nữa, và rồi đặt nó lên đỉnh đầu bóng loáng, vàng chóe của mình.
Miệng hắn nở một nụ cười rộng toác. Hắn gật đầu với bọn ta để tỏ vẻ tôn trọng, và sải bước về phía mạn trước. Hắn bước đến trước mũi thuyền và nhoài người ra, đối mặt với biển cả mênh mông, và giơ hai cánh tay lên cao.
“Hãy trỗi dậy!” Hắn gầm lên, như thể cố tống hết không khí từ phổi ra vậy. “Hãy nghe lời hiệu triệu của ta, hỡi các sinh vật nơi đáy sâu! Hãy trỗi dậy và đến với ta!”
Hạm đội của Hoàng Tử đang ngắm nhìn đầy háo hức. Ta bắt gặp ánh mắt T.F, hắn liếc nhìn ra hiệu xuống chỗ Intrepid.

Dù ta không nghĩ là chiếc vương miện sẽ hoạt động—và một phần trong ta cũng mách bảo rằng tốt hơn hết là bọn ta nên phắn đi trước khi ý nghĩ của ta được chứng minh là đúng—nhưng đối với tất cả những gì ta đã chứng kiến hôm nay, ta cũng không loại trừ khả năng là nó có thể hiệu nghiệm. Và nếu điều đó xảy ra, thì bọn ta lại càng có lý do để phắn đi xa hơn nữa. Hơn hết, mụ phù thủy già ấy chắc hẳn sẽ không quá ấn tượng nếu ai đó nghịch đồ chơi của mụ ấy đây.
Dù vậy, ta cũng có chút hơi giật mình khi một con quái vật to tổ bố, to hơn tất cả những sinh vật ta từng thấy, trồi lên từ mặt biển cách Nữ Vương Thăng Hoa tầm vài trăm thước.
Ta và T.F, dù đã bơi xa gần nửa dặm, vẫn điên cuồng khua máy chèo về phía bến cảng, nhưng ngay cả tại đây, sự khổng lồ của thứ đó vẫn khó mà thấu hiểu được.
“Cái quái gì đấy,” ta lầm bầm.
T.F còn không thể kiềm được. Hắn đứng thẳng dậy, mọi nỗi sợ bị rơi khỏi mạn thuyền dường như tan biến trong phút chốc. Hắn nhìn chằm chằm, miệng há hốc, vào con quái vật biển phía xa.
Ta có thể nhận ra dáng người bé xíu của Hoàng Tử, đứng trên mạn thuyền Nữ Vương Thăng Hoa, hai cánh tay vẫn giơ lên trời.
Con quái thú vẫn tiếp tục trồi lên. Nó có thể bị nhầm là cả một hòn đảo nhỏ, nhưng công bằng mà nói, ít hòn đảo nào lại có những đốm sáng nhử mồi phía trên đỉnh đầu, hay những chiếc răng với kích cỡ của một cái sống thuyền, hay đống xúc tu nhầy nhụa cuồn cuộn, hay những con mắt xanh nhợt, chết chóc với kích cỡ của mặt trăng.
Gần như không mất chút nỗ lực, con quái thú khổng lồ vươn đến và quấn chặt Nữ Vương Thăng Hoa trong những chiếc vòi của nó. Chiếc thuyền buồm nghiên hẳn về một bên, những khẩu thần công, và thủy thủ đoàn bị hất văng xuống mặt biển. Ta vẫn thấy được Hoàng Tử, bám víu vào mạn trước chiếc thuyền. Và rồi bộ hàm khổng lồ của con quái thú mở toang, gặm mất nửa trên chiếc thuyền, và nuốt trọn nó—cùng với Hoàng Tử.
Mọi thứ kết thúc chỉ trong chốc lát. Trước khi Hồi Chuông Thứ Năm vang lên, mọi bằng chứng về sự tồn tại của Nữ Vương Thăng Hoa đã biến mất, và con quái thú đã biến mất dưới mặt nước.
“Cái của giời gì đấy,” ta nói lại lần nữa. Ta không nghĩ là ta và hắn có thể mường tượng ra bất cứ thứ gì của sự việc vừa diễn ra.
Sau một chốc, ta lại tiếp tục khua mái chèo. Chỉ đến khi bọn ta đã neo vào Cầu Cảng Trắng, và đặt chân lên mặt đất, bọn ta mới tiếp tục mở lời.
“Ừm, đúng là có cái gì đó’,” ta nói.
“Rõ ràng.”
“Đoán là mụ phù thủy già đấy sẽ đuổi theo bọn mình nhỉ?”
“Tao cũng đoán thế.”
Ta gầm gừ, và cả hai đều đứng đó trong thinh lặng, mắt cùng nhìn chằm chằm về phía khu vịnh.
“Đi nhậu không?” rốt cuộc thì T.F cũng mở lời
Ta chợt nhớ ra mấy đồng Kim Xà mà ta đã thó trong hang của mụ phù thủy. Không hề là một ý tưởng tồi khi tiễn chúng đi càng sớm càng tốt.
“Nhậu thôi” ta gật đầu đồng ý. “Lần này tao trả.”

Sarah Fortune ngả người ra ghế, chân gác lên bàn. Cô nhấp một ngụm từ chiếc cốc được chạm trổ tinh tế, cố tỏ vẻ thân mật… dù vậy, được giấu kín trong lớp áo khoác dày, tay cô đang siết vào cò khẩu súng đã lên đạn.
Hàng đống những đồng xu cổ, báu vật, và đá quý được chất chồng lên mặt bàn trước mắt cô. Dù đã xỉn màu, bám đầy san hô và rong rêu, chúng dư sức giúp cô mua được cả nửa Hạm Đội Đồ Tể. Dù vậy, Sarah Fortune vẫn vờ tỏ ra không hề ấn tượng. Tỏ ra quá hứng thú lúc này cũng chẳng để làm gì.
“Vậy, để trao đổi với người của ta, và đống của cải này” cô nói, chầm chậm chỉ tay vào đống kho báu, “thực sự thì  đòi hỏi điều gì gì?”
Mụ phù thủy biển nhìn cô bằng đôi mắt trắng đục, rỗng tuếch. Dù vậy, đôi mắt vàng của sinh vật trú ngụ trên đầu mụ ta chớp mắt.
“Hai con chuột nhắt, vật tế cho Tà Thú Đáy Vực,” mụ phù thủy thều thào. “Tìm bọn chúng cho ta, rồi những thứ này, và còn nhiều hơn nữa, sẽ thuộc hết về ngươi…”

---


Video liên quan

MỘT BÌNH MINH MỚI (Ahri)

loading...

Danh sách chương: