Đạo mộ bút ký - Quyển 5 - Xà chiểu quỷ thành


Chương 1. Chú Ba tnh li

Sau khi kết thúc cuộc thám hiểm Vân Đỉnh thiên cung chừng hơn một tháng, tôi vẫn ở lại Cát Lâm chăm sóc cho chú Ba, để mắt đến chú không rời. Tôi sợ chú sau khi tỉnh sẽ lại chuồn đi mất không lời cáo biệt, cho nên, tôi dọn luôn đến bệnh viện mà trú ngay bên giường bệnh của ổng.

Quả nhiên, những chuyện xảy ra về sau đã chứng minh được trí tuệ tài ba nhìn xa trông rộng của tôi, thế nhưng, lúc bấy giờ người khác đều không cho là vậy.

Tình trạng của chú đã ổn định, nhưng không có dấu hiệu gì là sắp tỉnh. Nhịp thở bình thường, sắc mặt hồng hào, chỉ là mãi không có phản ứng gì. Bác sĩ nói, mọi thứ đều không có gì nghiêm trọng, chỉ có điều, vết thương của chú bị nhiễm trùng nặng, e rằng cơn sốt cao lúc ấy đã làm trung khu thần kinh bị tổn thương chỗ nào đó rồi. Bây giờ, chú có tỉnh lại được không, còn phải chờ số trời.

Tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài chờ đợi. Trong thời gian đó, có vài người nhà đến thăm tôi đôi ba bận, nhưng tôi đều từ chối lời mời ra ngoài ăn cơm. Tôi sợ khi tôi vừa bước ra khỏi bệnh viện, lúc quay về sẽ thấy chú Ba biến mất tiêu. Mẹ tôi còn mắng tôi khờ, nhưng tôi vẫn kiên trì tin tưởng vào suy nghĩ của mình. Không nói quá lên một chút nào, cả quãng thời gian hơn một tháng trước khi chú Ba tỉnh lại, tôi hầu như không rời khỏi giường bệnh của chú một bước.

Trong quãng thời gian dài đó, tôi đã làm được không ít việc. Tất cả những manh mối về Vân Đỉnh thiên cung đều được tôi sắp xếp lại. Mấy cố vấn trong công ty của A Ninh sau khi về nước cũng lần lượt gửi cho tôi những tư liệu bọn họ có được, bao gồm hơn mười tấm ảnh về bức bích họa ẩn dụ trong phòng đặt quan tài chủ mộ ở hậu điện trong ngôi mộ dưới đáy biển, còn có toàn bộ bản dịch của đoạn văn bên trong con cá đồng, vân vân.

Tổng kết lại từ những manh mối có được này, tôi đã có thể lý giải được toàn bộ bí mật của Uông Tàng Hải, tâm trạng cũng dần dần khá lên đôi chút. Uông Tàng Hải người này có thể nói là một thiên tài xuất chúng của thời đại, bây giờ, ông ta có thể an lòng mà nhắm mắt được rồi, bởi vì bí mật mà ông ta đã trăm phương ngàn kế truyền lại cho đến ngày nay giờ đã có người tiếp nhận được. Tuy rằng, ở thời đại của tôi, tôi vẫn không thể nào giải thích được cảnh tượng mà ông ta đã chứng kiến lúc ấy, thế nhưng, nếu bí mật này đã có thể truyền được đến đời sau thì chắc chắn một ngày nào đó, nó sẽ có câu trả lời.

Ngoài ra, còn một điều làm tôi cứ lo nghĩ mãi không thôi, đó chính là mục đích của Muộn Du Bình và chú Ba. Theo suy đoán của tôi, hai mươi năm trước, khi mấy người đó lặn xuống ngôi mộ dưới đáy biển, hình như bọn họ đã đều đi tìm cánh cửa khổng lồ giống cái ở dưới đáy Vân Đỉnh thiên cung kia, và cũng đều muốn đi vào trong đó. Tôi tận mắt nhìn thấy, Muộn Du Bình đã dùng một cách thức khiến người ta líu cả lưỡi để đi vào, mà trong đống thi thể của bọn Lý Tứ ở phòng chứa kho báu kia bị thiếu mất hai người (không biết là thiếu những ai), hai kẻ đó cũng có thể là đã đi vào rồi.

Vì sao bọn họ muốn vào đó? Và đi vào để làm gì?

Tất cả những bí ẩn đều tập trung vào chuyện đã xảy ra hai mươi năm trước trong ngôi mộ dưới đáy biển, có lẽ Uông Tàng Hải vẫn còn để lại một vật gì đó hoặc là thông tin gì đó trong ngôi mộ của mình. Thứ này chính là nguyên nhân cũng như là nhân tố quyết định khiến tất cả bọn họ đều nảy sinh ra cái ý định "nhất quyết phải đến Vân Đỉnh thiên cung" trong đầu. Đáng tiếc, tôi phải đợi khi nào chú Ba tỉnh lại mới có thể giải đáp được câu hỏi này.

Ngoài ra, tôi còn giúp Bàn Tử bán đấu giá sáu món kim khí mà hắn đã mang theo ra ngoài lần trước. Lần bán này thu về cho hắn một khoản tiền lời lớn nhất bọn, mấy món kim khí này có giá trị rất cao, trong đó có một cái ly vàng chân cao khảm mã não theo phong cách Tây Vực bán được đến bốn trăm ngàn Đô la. Bàn Tử cũng là loại ăn ở có nghĩa khí, đem số tiền đó chia cho tôi một ít, coi như là tiền hoa hồng. Tôi thề độc với hắn, vụ tiền trang bị cho lần gắp Lạt Ma sau, tuyệt đối không có lần sau nữa.

Từng ngày từng ngày trôi qua, tôi bắt đầu cảm thấy có chút chán nản. Suốt quãng thời gian dài chờ đợi, lòng kiên trì cũng dần dần bị bào mòn mất. Mấy tháng đầu thì tôi còn rất nhiều việc phải thu xếp và xử lý, nhưng về sau, tôi chỉ toàn ngồi nhìn tấm ảnh chụp đen trắng kia trên máy tính của chú Ba. Tôi vẫn thường nghĩ, cái tên Muộn Du Bình đáng chém ngàn đao kia, không biết giờ này hắn ta đang làm cái gì nhỉ?

Ngay khi tôi còn tưởng phải tiếp tục cái lối sống như này lâu hơn nữa, thì sự tình bỗng nhiên xuất hiện một bước ngoặt không thể tưởng tượng nổi. Giờ nghĩ lại tình cảnh lúc đó đúng là như phim truyền hình dài tập.

Một ngày đẹp trời, bác sĩ chữa trị chính cho chú Ba đột nhiên đến tìm tôi, nói có chuyện quan trọng muốn bàn.

Bệnh tình của chú Ba đã vô cùng ổn định, đã lâu rồi bác sĩ cũng không đến kiểm tra gì nhiều, tôi có hơi bất ngờ, tự nhủ lẽ nào chú Ba chỉ có mỗi việc nằm bất động mà bệnh tình cũng chuyển biến được sao?

Vì vậy, tôi lo lắng bất an đi theo ông ta đến văn phòng, không ngờ, vừa tới đó thì thấy một tên người làm của chú Ba đang ở đó. Tôi hỏi gã tìm tôi có việc gì, cậu ta liền ấp a ấp úng, nói mãi không thành câu, bối rối gãi đầu đến nửa ngày trời, mặt mũi tắc nghẹn đến đỏ bừng.

Người này tôi tương đối quen mặt. Gã là một trợ thủ khá đắc lực của chú Ba, bình thường khi đi buôn, tôi chưa bao giờ thấy vẻ mặt này của gã. Tôi vừa nhìn thấy, lập tức trong lòng có cảm giác không ổn, bụng bảo dạ thôi xong rồi, đã trúng kế!

Tôi vội vội vàng vàng chạy về phòng bệnh, không khỏi nghiến răng nghiến lợi, quả nhiên là chú Ba đã biến mất tiêu.

Trên giường chăn gối lộn xộn, tôi liền tìm khắp xung quanh: dưới giường không có, trong tủ không có. Khỏi phải nói, rõ ràng thừa dịp khi tôi vừa đến văn phòng của bác sĩ, lão chết tiệt này liền chuồn con mẹ nó luôn!

Tôi ngây người trong một chốc, tự hỏi ổng tỉnh từ bao giờ, liên lạc với bên ngoài từ bao giờ, tại sao tôi không phát hiện ra được tí gì cả.

Kế tiếp là cơn giận dữ ập đến trong chớp nhoáng. Tôi quả thực không thể hình dung lại được cơn phẫn nộ lúc ấy của tôi đến mức nào, nhìn cái giường bệnh trống trơn, lại nhớ đến mấy tháng chán ngắt bám dính bên giường bệnh không dám rời nửa bước, mong đợi chú tỉnh lại, kỳ vọng được giải đáp tất cả mọi chuyện, nhất thời tất cả dồn nén lại thành một cục gì đó chặn ứ ngay trong lồng ngực, một cảm giác thất vọng mãnh liệt nhấn chìm lấy toàn thân tôi!

Tôi lấy hết sức đấm một cú thật mạnh lên giường bệnh, phát ra tiếng động rất lớn.

Tôi nghĩ mãi không ra, rốt cuộc vì sao chú lại tránh né tôi, rốt cuộc là vì sao? Sự việc đã đến mức này, rốt cuộc ổng còn cái gì không thể nói được nữa, chả nhẽ, cái bí mật trong lòng ổng kia thực sự quan trọng đến vậy sao?

Thế nhưng, ngay khi tôi đang ảo não không thôi, chỉ muốn đứng dậy đi đập cho bác sĩ một trận, lại vừa muốn đâm đầu vô đậu hũ chết quách đi cho rồi, thì đột nhiên tôi nghe thấy ngoài cửa có tiếng ai đó giãy dụa vật lộn. Nhìn lại thì thấy, chú Ba tôi mặt mũi xám ngoét đang bị người ta xách cổ, áp tải vào phòng bệnh, còn người đang xách cổ chú thì không phải ai xa lạ, chính là chú Hai nhà tôi.

Té ra, khi ổng len lén chuồn ra ngoài, đúng lúc đang chạy trên hành lang thì đụng phải chú Hai. Chú Hai thấy thế tự nhiên là biết ổng đang trốn tôi, thế là cuối cùng, ổng không thể làm gì khác ngoài ỉu xìu xìu mà quay về.

Tôi bất động thanh sắc, cũng chưa vạch mặt chú Ba vội. Ba người ngồi lại nói chuyện phiếm một hồi, tôi nhân cơ hội ấy nhắc đến chuyện đã xảy ra sau khi chú hôn mê, đồng thời kể lại tất cả những suy đoán của tôi cho chú nghe. Thế nhưng, chú lại không có thái độ gì, chỉ duy nhất khi nghe đến việc Muộn Du Bình đã đi vào trong cánh cửa, sắc mặt có hơi chút biến đổi.

Một lúc sau, chú Hai đi về. Trước khi đi, chú còn nhắc tôi trông chừng cái lão con nít này cho tốt. Chú Hai vừa đi, tôi lập tức trở mặt chất vấn, hỏi ổng rốt cuộc đã tỉnh từ lúc nào, giả bộ hôn mê lòe tôi được bao lâu rồi?

Chú Ba vô cùng lúng túng, nhưng vì bị tôi bắt vở mất rồi, nên cũng chẳng còn cách nào khác, bèn nói, thật ra chú cũng chỉ vừa mới tỉnh lại, chẳng là nãy tính ra ngoài kiếm WC giải quyết tâm sự tí thôi.

Tôi không thèm tính toán chuyện này với ổng, vì nói không chừng có khi ổng cũng nói thực. Tôi không tin trên đời lại có người có thể giả bộ hôn mê suốt cả tháng giời, ai mà chịu nổi cơ chứ. Nhưng khi tôi lại hỏi chú về chuyện khác, ổng liền đã trót thì chơi đến trét luôn, nhất định không nói, rồi lại còn bảo cái khỉ biển gì mà chuyện đó chẳng liên quan đến tôi.

Tôi đứng phắt dậy chửi một tràng, tôi nói, ông cái lão già chết tiệt này, có biết chỉ vì chuyện của ông mà tôi đã phải gánh không ít khổ sở, rồi lại còn cả Đại Khuê, cả Phan Tử, bọn họ theo ông vào sinh ra tử, ông có tôn trọng bọn họ một tí gì không vậy, ít nhất thì cũng phải cho bọn họ biết bọn họ đang mạo hiểm tính mạng cho ông, rốt cục là bởi nguyên do gì chứ!

Lời nói xong, ngữ khí vô cùng gay gắt. Tôi thực sự tức giận, đặc biệt khi nhớ tới cảnh Phan Tử đối với lão già này tình thâm ý trọng, tôi nghẹn uất không nên lời.

Bấy giờ chú Ba mới trầm mặc một lúc, rồi cười khổ vài tiếng, thở dài, lắc đầu nói: "Việc này không liên quan gì tới mày, nói ra, không chừng có phiền phức hơn nữa. Chú không nói cũng là vì muốn tốt cho mày thôi, cần gì phải gắt như thế?"

Tôi lắc đầu, dù có phiền phức gì thì cũng là do tôi tự chuốc lấy, tôi nhất định phải biết chân tướng sự việc, bằng không, tuyệt đối không bỏ qua.

Tôi nói rất kiên quyết, hơn nữa, còn nhìn thẳng vào chú Ba mà nói, chính là muốn cho chú biết, giờ này kiểu gì ổng cũng không trốn được tôi đâu, đừng có mà mơ tưởng hão huyền.

Đây cũng là thành quả mà tôi học được trong mấy ngày nay, tôi đã lo là thế nào cũng sẽ có tình huống này, cho nên tôi đã xem qua rất nhiều tài liệu tâm lý học, xem xem làm thế nào để hóa giải được phòng tuyến bảo vệ bí mật của người khác.

Chú Ba suy nghĩ một lúc, rồi thở dài một hơi, dường như cuối cùng cũng quyết định được. Chú xoa xoa đôi mắt, nói: "Ai da, không ngờ không ngờ, người ta bảo con cái là chủ nợ từ kiếp trước, ta cứ tưởng rằng không đẻ đứa nào hết là xong, nào ngờ cái thằng nhóc nhà mày lại thay thế mà ngồi lên đầu ta, xem ra hôm nay, bất kể thế nào mày cũng nhất quyết phải biết sự thật, đúng không?"

Tôi cả giận, nói: "Ông còn có mặt mũi mà nói lời này à? Chả biết ai giả nợ cho ai đâu, không rõ kẻ nào suýt nữa bị chôn sống dưới đáy biển ấy nhỉ? Kẻ nào suýt nữa bị Hầu tử nuốt sống ấy nhỉ? Kẻ nào..."

Chú Ba giơ tay đầu hàng, nói: "Được rồi được rồi, bây nếu đã vầy, chú cũng ngoại lệ nói cho mày hay, nhưng mà, mày phải thề một câu, nghe xong không được kể cho bất cứ ai."

Cái loại thề thốt gì đó tôi đem làm cơm ăn hết, sao có thể thành thật được, cho nên bèn thề độc, nếu trái lời cả nhà chết sạch.

Chú Ba kinh ngạc khi thấy tôi thề độc một câu quá cay nghiệt, mãi hồi lâu mới lắc đầu cười, nói: "Chú cảnh báo trước, việc này không phải ai nghe cũng tin nổi, chú nói xong, nếu mày không tin thì chú cũng chịu thua."

Tôi nôn nóng đến mức ho khụ một cái, nói: "Tôi bây giờ còn có cái gì mà không tin nổi nữa đây, thôi chú cứ nói đi xem nào."

Chú Ba thở dài một hơi, sờ soạng nửa ngày mới móc ra được nửa điếu thuốc, chẳng biết chôm chỉa từ lúc nào. Chú nhìn ngó ra ngoài cửa, thấy không có y tá ở đó, mới có vẻ tiếc nuối mà châm lửa, đứng lên hút một hơi, rồi nói: "Đó chuyện từ rất lâu trước đây. Tính ra, khởi nguồn của tất cả mọi sự đều là từ những gì được ghi chép trong quyển sổ tay của ông nội mày, bắt đầu vào một buổi đêm, từ năm mươi năm về trước. Nếu như mày muốn biết hết thảy mọi chuyện, chú đây sẽ bắt đầu kể từ câu chuyện này."

Chương 2. Chuyn cũ chng dám nh li.

Chú Ba rốt cuộc cũng tỉnh lại, tôi nôn nóng chẳng đợi được, gặng ép ổng nói ra toàn bộ sự việc, trong lòng ngây thơ cho rằng mình càng ngày càng tới gần chân tướng rồi. Thế nhưng, không ngờ lời tự thuật của chú Ba lại phải bắt đầu kể từ câu chuyện của năm mươi năm trước, câu chuyện được ghi chép lại trong cuốn bút ký của ông tôi.

Hiện giờ, tôi không mang theo bên mình cuốn bút ký của ông, nhưng nội dung bên trong tôi vẫn nhớ cực kỳ rõ ràng. Chuyện đã xảy ra vào cái đêm của năm mươi năm trước ấy, quỷ quái dị thường, nhưng đến đoạn cuối, ông tôi lại không ghi những chuyện đã xảy ra sau khi ông trúng độc mà ngất đi, bởi vậy, chúng tôi cũng chẳng biết tí gì. Giờ nhớ lại những câu chữ trong cuốn bút ký, tôi vẫn thấy trong lòng dấy lên một cảm giác hoang mang khó hiểu.

Tuy nhiên, vừa nghe chú Ba nói vậy, tôi bỗng cảm thấy không tin cho lắm, bởi vì ông tôi vốn luôn luôn giữ chuyện này kín như bưng. Trước lúc qua đời, mặc kệ mấy đứa con cháu chúng tôi có vặn hỏi đến thế nào, ông vẫn không hề hé răng nửa lời. Quan hệ giữa chú Ba với ông từ lâu đã không tốt, tôi tin là ông lại càng chẳng nói cho chú nghe đâu.

Vì vậy, chú vừa nói xong tôi liền đốp lại luôn: "Mẹ kiếp chú đừng có hòng bịp tôi. Năm mươi năm trước ông nội còn đang mặc quần thủng đít, mồm ông ngậm chặt như thế, làm thế nào mà chú biết được? Chú đừng hòng chém đại ra mấy câu chuyện có vẻ nguy hiểm ra lừa tôi nữa, tôi tuyệt đối sẽ không mắc lỡm đâu."

Chú Ba nghe xong, phật ý đáp lại: "Không kể cho mày thì mày cứ quýnh lên, mà nói ra thì mày lại không tin, làm sao mà chú lại không thể biết được? Mày không tin thì thôi, chú đỡ phải kể, chú còn đang không muốn nói đây này."

Tôi nhác thấy ổng kiểu này hẳn là muốn được thể nuốt lời, lập tức nói: "Thôi thôi, cháu tin rồi. Cháu chỉ kêu ca có một tí thôi mà, chú mau nói tiếp đi."

Chú Ba ném toẹt một cú nguýt vào mặt tôi, ngẫm nghĩ chán rồi mới nói tiếp.

Tôi nghe một hồi thì thấy mình đúng là đã hiểu lầm chú. Thế nhưng, sự việc lại phát triển thành như thế, tôi thật sự không thể ngờ được. (Chuyện chú Ba kể tương đối phức tạp, nếu viết lại toàn bộ, e rằng phải mất cả một quyển sách, cho nên ở đây tôi chỉ lựa chọn lược lại vài phần tương đối quan trọng ở trong đó.)

Nguyên nhân xảy ra chính là từ quyển bút ký kia, song quá trình xảy ra lại rất phức tạp.

Trước khi truyền đến tay tôi, quyển bút ký vẫn nằm lẫn lộn trong rương đồ lặt vặt trên gác xép căn nhà cũ ở quê. Mãi đến khi tôi biết đọc biết viết, một lần, trong lúc lục lọi đống đồ cũ thì vô tình nhìn thấy, nó mới lọt vào tay tôi, mà trước đó cả ba tôi lẫn chú Ba hồi còn trẻ cũng đều đã từng đọc cuốn bút ký này rồi.

Lần đầu tiên chú Ba nhìn thấy quyển bút ký này là lúc nào, chính chú cũng chẳng còn nhớ rõ, chỉ biết rằng, khi đó chú đã ra ngoài làm ăn được một thời gian, ít nhiều cũng có chút kiến thức, những truyền thuyết hiếm lạ cổ quái cũng đã được nghe không ít khi tiếp xúc với lớp đàn anh cha chú. Chú biết có một câu nói vẫn lưu truyền trong kho mánh lới của đám thổ phu tử ở Trường Sa: "Đất ngậm máu, thây mang vàng", cho nên, vừa thấy cuốn bút ký, lại nghĩ đến việc trước giờ mình chưa từng mò được thứ gì đặc biệt để thể hiện bản lĩnh, chú liền lập tức bị thứ được ghi chép trong quyển bút ký này hấp dẫn.

Lúc đó chú đang tuổi thanh xuân phơi phới, tính tình quá khích lại dễ bị kích động, sau nhiều lần đọc những ghi chép trong quyển bút ký thì, như một lẽ đương nhiên, chú nảy ra ý định quay trở về Phiêu Tử Lĩnh một chuyến xem thử.

Đương nhiên, chú không phải muốn đến tìm hiểu xem ông nội năm đó đã gặp phải chuyện gì, chỉ đơn giản là muốn cầu tài mà thôi. Cổ mộ có mọc chân ra mà chạy được đâu, cho dù có thêm bao nhiêu năm đi nữa, chắc hẳn nó vẫn còn ở nguyên chỗ đó. Hơn nữa, hồi mới Giải phóng, chốn thâm sơn cùng cốc này còn có thổ phỉ hoành hành, chả có mấy ai vào đấy làm gì. Chú tin trong cổ mộ ắt hẳn phải có thứ đồ gì ngon ngon còn sót lại.

Cách nghĩ này so với thời nay thì có thể cảm thấy khó hiểu, chứ suy theo năng lực và kiến thức của chú Ba tại thời điểm đó, thì cũng là chuyện tương đối bình thường. Theo lời chú nói thì đám người đồng trang lứa thời bấy giờ ai ai cũng đều như thế cả, vừa mới chân ướt chân ráo vào nghề, cái ham muốn mò được đồ tốt để vang danh thiên hạ nó mãnh liệt vô cùng.

Tuy nhiên, Phiêu Tử Lĩnh chỉ là một cái tên lóng để gọi vùng đất kia hồi ông tôi còn bé mà thôi. Kiểu tên gọi này có thể dùng để chỉ một gò đất nhỏ, cũng có thể để chỉ cả một quả núi, hoặc thậm chí nguyên một khu rừng rậm nguyên sinh ở cái chỗ nào không biết luôn, cho nên chỉ dựa vào một cái địa danh như vậy để đi tìm ngôi mộ cổ kia, thì chả thực tế chút nào.

Vậy thì, phải làm thế nào để có thể định vị được chính xác vị trí của nơi đó đây? Chú Ba bỏ thời gian ra suy nghĩ rất lâu nhưng vẫn chẳng lần ra được tý gì, cho đến tận lúc trước khi đi Tây Sa một năm, rốt cuộc mới có được chút manh mối.

Năm ấy, chú về quê cũ của ông nội ở Trường Sa. Quê nhà trên miền núi, chú đi đường đèo suốt bốn ngày mới tới được cái thôn làng hẻo lánh ở tít trong vùng khỉ ho cò gáy kia, ở lại dăm bữa nghe ngóng tin tức về vị trí của Phiêu Tử Lĩnh từ miệng dân bản xứ. Mặc dù chuyến đi ấy không gặt hái được tin tức trực tiếp về vị trí, nhưng lại thu hoạch được rất nhiều thông tin về tình hình đất đai ở nơi đó.

Sau khi trở về, chú nghiên cứu lại lần nữa những ghi chép trong bút ký, sự việc liền sáng tỏ. Dựa vào nội dung cụ thể trong cuốn bút ký, cùng với việc nhớ lại những mẩu chuyện mà chú hồi bé đã nghe lỏm được từ ông nội, lại cộng thêm một số thông tin dò la được từ trong thôn làng kia, chú đã bắt đầu lờ mờ đoán ra, ngôi mộ cổ này có lẽ nằm ở gần Trại Quỷ trên núi Mãng Sơn.

Trong quyển bút ký có đề cập đến một chuyện, đó là khi cụ cố và ông nội tôi trong lúc vội vã băng qua khu rừng rậm, bọn họ đều bị một loại rắn có tên là "Thiết đầu xà" cắn phải. Loại rắn này thường cuộn mình dưới những bụi cỏ, rất khó phát hiện. Thời bấy giờ, phạm vi chúng tác quái rất rộng, về sau phong trào vận động diệt rắn phát triển, một lần ra quân đã đánh cho loại rắn này suýt nữa tuyệt chủng luôn. Dĩ nhiên đó là chuyện về sau.

Đám thổ phu tử thời đó đều là tự sinh tự diệt hết, bị rắn độc cắn phải rồi, thường thường chỉ hút nọc độc ra, đắp một ít thuốc lá, nhai mấy miếng thuốc quê, chứ làm gì có cách nào chạy chữa tử tế đâu. Xử lý xong xuôi, nếu vài canh giờ sau mà người bị rắn cắn không có phản ứng trúng độc thì tức là bình yên vô sự; còn nếu ngược lại, thì nói chung là vô phương cứu vãn rồi, chỉ có nước chấp nhận số phận thôi.

Lúc ấy, con rắn cắn phải hai người là loại rắn nhỏ, miệng vết thương không sâu nên ông cũng chẳng để ý, sau khi xử lý đơn giản cũng không có cảm giác gì khác thường, vì vậy không nói hai lời liền ngậm miệng chạy tiếp. Chẳng ngờ, chạy được hai dặm đường, ông tôi đột nhiên ngã sấp xuống, bất tỉnh nhân sự.

Bọn họ dừng lại quan sát kỹ, chỉ thấy ông tôi da dẻ xanh mét, lên cơ co giật, rõ ràng là nọc rắn đã phát tác. Sau đó cụ cố tôi phải chạy gấp suốt hai dặm đường đèo, tìm đến chỗ người dân tộc miền núi, mới dùng lá thuốc cứu về được một mạng cho ông.

Mấy người nhà ông tôi vì thế phải ở lại nơi đó nghỉ ngơi hai ngày. Mà căn cứ vào cái thác nước ngày ấy ông tôi miêu tả, có thể khẳng định chỗ bọn họ nghỉ lại chính là là Trại Quỷ.

Đến tận ngày thứ tư sau vụ rắn cắn, bọn họ mới đến được cái nơi gọi là Phiêu Tử Lĩnh kia. Nơi đó là một thung lũng bằng phẳng trong khe núi, bốn bề núi dựng, cây cỏ um tùm rậm rạp phát triển đột biến, đặc biệt là có rất nhiều những thân dây leo nghìn tuổi già nua. Trong thung duy chỉ có một vùng trũng hình lòng chảo tối mịt là không có bất cứ loại thực vật nào, để tơ hơ ra một khoảnh đất trơ trọi màu đỏ gắt như máu. Ngôi cổ mộ kia nằm ngay phía dưới thung lũng này.

Mỉa mai một điều là giống rắn từng cắn ông nội tôi kia giờ đây đã trở thành loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng. Một con rắn trưởng thành có giá hơn trăm vạn, vượt xa cả giá của một món minh khí bình thường.

Cứ thế, hy vọng tìm được Phiêu Tử Lĩnh liền tăng lên rất nhiều, dù rằng rừng rậm nguyên sinh trong núi Mãng Sơn tại thời điểm đó có diện tích bát ngát mênh mông, khác xa so với khu rừng vùng Trại Quỷ với thác nước ở trung tâm của hiện tại. Nhưng theo suy đoán thì đặc điểm địa hình vẫn còn nhiều điểm tương đồng, cho nên cũng không quá khó để tìm kiếm.

Chú Ba thu xếp hành trang, lại lên đường lần thứ hai. Chú đã quen với việc đi sớm về khuya một mình, bởi chú tuổi đời còn quá trẻ, đám lão luyện không muốn chú nhập bọn đi chung, còn những kẻ đồng trang lứa luận về bản lĩnh lại chẳng có ai bì được với chú.

Tuy nhiên, cho tới khi chú trải qua trăm đắng nghìn cay, băng qua rừng rậm Mãng Sơn ngày ấy gần như chẳng có bóng người, thì đập thẳng vào mắt là cảnh tượng mà có nằm mơ chú cũng không hề nghĩ tới...

Chương 3. Who are you?

Dựa theo chỉ dẫn của dân bản xứ, chú Ba đi men theo con đường không tên do người thời trước mở ra trong rặng núi, đại khái đi mất chừng bốn ngày trời. Khoảng một phần ba con đường là được mở trên lưng chừng vách đá, theo chú đoán thì chắc cũng phải bị bỏ hoang mấy trăm năm rồi. Có lẽ nó vốn là đường hành quân ven núi, mà giờ đây rêu xanh phủ kín, cỏ cây um tùm, càng vào sâu bên trong việc tu tạo lại càng cẩu thả.

Con đường nhỏ chạy thẳng vào đầm lầy ở sâu trong khu rừng rậm rạp. Đoạn đường bên ngoài dân miền núi còn thường xuyên qua lại, chứ khi đã đi qua khu Trại Quỷ thì càng vào trong càng chẳng có dấu chân người, đường đi lối lại sụt lên sụt xuống, dây leo thì mặc sức quấn kín mít, đến mức gần như là không thể tiến lên trước được.

Chú Ba phát huy tính ương ngạnh của mình, vật vã những mấy lần mới đi qua nổi con đường cổ đó. Tới được một nơi khác trên vách núi, chú từ trên cao phóng mắt nhìn xuống, đã thấy thung lũng được ghi trong cuốn bút ký đang ở ngay dưới chân mình. Trải qua hai mươi năm dầm mưa dãi nắng, vết tích của những người nhà ông tôi để lại năm xưa đã sớm biến mất dưới những tán cây tươi tốt sum xuê. Thế nhưng cái đồi đất màu đỏ trơ trụi trống hoác đang phơi ra giữa thung lũng kia lại vô cùng nổi bật, cực kỳ bắt mắt, như nói với chú rằng nơi đây chính là Phiêu Tử Lĩnh trong truyền thuyết kia.

Đồng thời, chú còn nhìn thấy ở gần đồi đất đỏ gắt kia, thấp thoáng dưới những tán cây, dường như có một thứ gì quái lạ đang đứng lù lù. Bởi vì màu sắc của nó gần giống với màu cây, nên từ độ cao nơi chú đứng mà nhìn thì không thể nhận ra được nó là cái gì.

Chú mơ hồ cảm thấy có điều gì không ổn. Nơi đây là thung lũng trong núi ít người lai vãng, dù có là dấu vết của công trình xây dựng hay cuộc sống sinh hoạt của con người thì cũng không thể nào xuất hiện ở chỗ này mới đúng. Vì vậy, chú bèn leo cao lên trên thêm vài bước, móc chiếc kính viễn vọng hàng lậu của Nga ra quan sát.

Vừa nhìn một cái chú liền chết sững. Cạnh đồi đất, dưới những tán cây, có mấy chiếc lều bạt quân dụng được dựng rải rác. Bạt phủ lều là loại vải rằn ri dùng để ngụy trang, cho nên đừng từ xa nhìn lại rất khó để phát hiện ra. Nếu không phải trong lúc giám định địa chất chú Ba rất nhạy cảm với những chênh lệch màu sắc vô cùng nhỏ này, thì khi nãy có lẽ đã để lọt lưới.

Bấy giờ, ruột gan chú Ba sôi lên sùng sục, thầm nghĩ cái chỗ quái quỷ này sao lại có người được cơ chứ? Mà lại còn dựng cả lều bạt, chắc không phải thợ săn đâu. Thợ săn sẽ không chui vào tận sâu tít thế này, cũng sẽ không được trang bị tốt đến vậy.

Chú còn đang buồn bực thì đột nhiên một trong số mấy chiếc lều vải chợt rung rung, từ trong đó có một người đi ra ngoài. Chú Ba nâng kính viễn vọng dõi theo, nhìn xong liền càng thấy bực bội.

Thì ra kẻ vừa xuất hiện kia là một tên lông tóc trắng lóa, vóc người to cao, người sặc mùi tiền, đích thị là một thằng giặc Tây.

Chú Ba lúc bấy giờ còn chưa biết đến sự khác biệt của người châu Âu giữa các vùng miền, thời bấy giờ chưa mở cửa cải cách, người phương Tây đến Trung Quốc cũng không nhiều, chủ yếu là đám dân Mỹ mê mạo hiểm. Vì thế, chú chả cần suy nghĩ đã chắc mẩm luôn rằng thằng Tây kia chính là người Mỹ.

Chú bèn suy nghĩ một lúc. Có người đặt chân đến đây đã là có vấn đề, mà bây giờ, chẳng những có người đến mà người đó lại còn là mấy thằng giặc Tây. Bọn chúng thì tới chỗ này để làm gì? Lẽ nào là lũ Đế quốc Mỹ xâm nhập phá hoại? Hay là... cũng vì ngôi mộ cổ dưới lòng Phiêu Tử Lĩnh mà tìm đến đây?

Chuyện mấy thằng Tây hám đồ cổ ai cũng thừa biết, nhưng bọn chúng nào có máu chiến đến mức phải đích thân đi đào. Bọn chúng cũng không biết đến cuốn bút ký của ông bô nhà mình, làm sao biết được dưới lòng đất chỗ này có mồ mả cơ chứ?

Đúng là quan hệ dây mơ rễ má đại bác bắn chẳng tới, chú Ba không tài nào đoán ra nổi, cảm thấy quái lạ vô cùng.

Chú ôm một bụng đầy nghi ngờ, đặt đống trang bị cá nhân xuống, rồi nhẹ nhàng luồn bên dưới khu rừng rậm lẻn vào đến tận gần chiếc lều bạt, phát hiện ra mấy thằng giặc Tây này đóng quân ở ngay sát mép đồi đất đỏ luôn. Có khoảng bốn chiếc lều bạt thôi, chú đoán nhân số chắc cũng không nhiều lắm. Gần đó còn có mấy gã người Trung Quốc, trông có vẻ như là dân địa phương làm bốc vác, đang ngồi hút thuốc nghỉ ngơi. Đồng thời, chú còn nhìn thấy trên gò đất bên cạnh có đào một cái hố to, miệng hố được che lại bằng một cái khung tre, phủ bạt chống thấm màu xanh lá. Bởi vì những thứ này nằm ở phía bắc tầm nhìn của chú, nên vừa rồi lúc ở trên vách núi chú mới không phát hiện ra.

Đối đất đỏ chắc hẳn chính là cái mả bị lấp năm đó. Bùn đất ở đây đều bị rang lên, trộn thêm một loại đơn dược làm cho cây cỏ không thể nào mọc nổi. Ấy vậy mà, bây giờ nhìn mà xem, trên bề mặt vẫn có rất nhiều cỏ dại mọc lỗ chỗ, rõ ràng người xưa đã đánh giá thấp khả năng thích nghi của các loài thực vật.

Chú ba nhìn thấy cái hố lớn tròn vành như cái miệng loa kia, liền hiểu ra ngay mục đích của mấy thằng Mỹ này cũng giống y như mình: bọn chúng đang khai quật mộ cổ.

Khi đó chú Ba hãy còn ít tuổi, thấy cảnh này, trong đầu chỉ rặn ra được một suy nghĩ: đây có lẽ là đội khảo cổ hợp tác Trung Mỹ, tới nơi đây khai quật hiện trường. Vào lúc ấy thì có lẽ đây là lời giải thích hợp lý nhất rồi.

Nếu là người Bắc phái, chắc lúc này chỉ biết cam chịu vận xui, vì theo luật lệ của bọn họ, dân không giành giật với quan. Nếu gặp phải đội khảo cổ thì còn biết làm sao nữa, anh cũng có xông lên giết sạch bọn họ được đâu? Nhưng chú Ba thì khác. Chú không cam lòng để kẻ khác nẫng tay trên của mình như vậy. Quan sát vị trí khai quật và cường độ làm việc của đám người Mỹ kia, chú liền biết ngay bọn người này không có kinh nghiệm của thổ phu tử, chắc chắn là chỉ biết áp dụng phương pháp đào mồ Tây của họ để đối phó với mộ cổ Trung Quốc mà thôi. Cứ đào như thế thì chẳng bao giờ vào được đến mộ cổ. Còn chú, chú chỉ cần tìm đúng vị trí, đào một đường hầm đi xuống là có thể thần không biết quỷ không hay mà chui lọt vào cổ mộ trước cả bọn chúng, khoắng sạch sẽ đồ đạc ở trong đó.

Chú Ba quay về chỗ cũ, lấy lại trang bị cá nhân. Giờ này bóng đã xế tà, trong ánh hoàng hôn, chú dùng bước chân của mình làm đơn vị, đi xuyên qua thung lũng để đo đạc diện tích bốn bề của đồi đất, tìm vị trí thích hợp nhất để đào đường hầm.

Quá trình tiến hành vô cùng phức tạp, mà chú Ba cũng chẳng giải thích tường tận. Chú chỉ cho tôi biết rằng lúc đó chú tràn đầy tự tin, điều duy nhất đáng lo là tình hình trong mộ cổ.

Đường hầm trộm mộ mà năm xưa ông tôi đào, thời gian tồn tại không được lâu, chắc chắn đã sụp sau mấy mùa mưa. Không biết lúc đó bọn họ vào mộ trong tình trạng nào, đã đào được đến địa cung trong hầm mộ hay chưa. Nếu vào được rồi, thì bên trong hầm mộ có khả năng là đã bị ngấm nước mưa, vậy thì ngoại trừ thứ nằm trong quan tài, còn lại những thứ đồ bồi táng khác có thể là đã mủn ra hết cả rồi. Mà muốn biết đồ trong quan tài có gặp họa hay không, còn phải xem chất liệu của quan tài và trình độ niêm phong thời ấy nữa.

Đêm xuống, đám người Tây bắt đầu nổi lửa lên trong doanh trại. Chú Ba lẳng lặng âm thầm mà đợi. Cho đến khi bọn chúng lăn quay ra ngủ hết, chú mới bắt đầu dùng "xẻng chân mèo" của mình cẩn thận đào từng li từng tý đất lên.

Xẻng chân mèo là loại xẻng chuyên dụng của thổ phu tử, tiếng động lúc đào phát ra cực nhỏ. Nhưng thời nay đã có xẻng công binh, đào còn ngọt và êm hơn cả xẻng chân mèo, cho nên xẻng chân mèo đã rút khỏi vũ đài lịch sử. Tuy nhiên, vào thời điểm đó thì xẻng chân mèo đã là thứ gây ít tiếng động nhất mà chú Ba có thể sử dụng rồi.

Cho dù như thế, lúc đào bới chú Ba vẫn cực kỳ căng thẳng, vì không thể dùng xẻng Lạc Dương thám thính trước tình hình dưới lòng đất (xọc một nhát là phát ra tiếng động, với lại chẳng biết vì sao mà tiếng xẻng Lạc Dương cắm ngập vào đất rất dễ làm chim rừng hoảng sợ bay tán loạn) nên chú cũng không tự tin rằng đào một lần vào được ngay lòng mộ.

Đào suốt chừng hai giờ thì ra năm cái đường hầm, đều không trúng chỗ, nhưng cũng dần dần thu hẹp được phạm vi. Đến cái đường hầm thứ sáu, khi đào được khoảng sáu mét, xẻng của chú Ba rốt cuộc đụng phải một vật rắn. Đang lúc chú thu vén xong xuôi, muốn dùng đèn pin chiếu sáng xem thử một cái, thì đột nhiên cảm thấy không ổn. Dưới lớp đất truyền đến một đợt chấn động cực nhỏ, rồi ngay sau đó, toàn bộ đường hầm sụp hẳn xuống. Đến một tiếng hét chú cũng chẳng kịp kêu, mồm miệng đã bị vùi kín trong bùn đất. Đất dưới chân và xung quanh chú cũng loáng cái đã bị sụp xuống tận dưới sâu trong lòng đất.

Chương 3. M c huyết thi

Theo bản năng, chú Ba liên tục quẫy đạp bình bịch bùn đất bốn phía, hòng thò đầu ra để thở hay tóm được thứ gì đó xung quanh, thế nhưng cũng chỉ phí công. Ráng sức được chừng hai ba giây, chú lại cảm thấy dưới chân hẫng đi một cái, rồi rơi tuột vào khoảng không, tiếp đó toàn thân mát lạnh, cả người chú bọc trong bùn đất cứ thế rớt tòm xuống nước.

Dòng nước lạnh buốt nhoắng một cái đã xối sạch lớp bùn trên mặt chú. Chú ho khan, giãy giụa rồi đứng lên, chỉ thấy bốn bề tối đen như mực. Chú không biết mình đã rơi vào đâu, chỉ biết từ phần eo trở xuống đều ngập trong nước, khắp xung quanh nồng nặc một mùi hôi thối kỳ dị.

Đèn pin vẫn sáng, giờ đã bị rơi xuống nước, chỉ còn thấy một đốm điện le lói. Chú Ba cúi xuống lần mò nhặt cái đèn pin lên. Vì đèn bị ngấm nước nên vừa sờ vào đã tắt ngóm, chú phải đập hai cái nó mới lại sáng lên, nhưng ánh sáng đã nhợt nhạt đi một chút.

Chú rọi đèn pin ra khắp chung quanh, phát hiện thấy mình đang ở trong một căn phòng gạch, bốn phía là bốn vách tường xây bằng gạch xanh[] cắt gọt vuông vức. Quay ra đằng sau, chú nhìn thấy một hang động lớn được khoét ra trên bức tường gạch xanh, có vẻ là do sức người làm nên. Rõ ràng ban nãy chú đã trượt vào đây qua cái hang này.

[1] Gch xanh: làm bng đt sét trn cha mt loi nhôm silicat b phong hóa sau mt thi gian dài, sau khi nung chuyn thành màu xanh đen, kh năng to hình tt, chu lnh tt, tính thông khí tt, hút nước tt, duy trì được đ m trong không khí, chu được lc ma sát, đ được vn năm cũng không mc ra. Gch xanh thường được s dng trong các kiến trúc c ca Trung Quc, đem li cm giác trang nhã, vng chãi, c phác, tĩnh mch.

Chú Ba xem xét một vòng, liền nắm được tình hình ngay lập tức. Nơi chú vừa đào bới có vấn đề. Có lẽ đó vốn là một cái hõm đã bị đất lấp lại, do trọng lượng cơ thể chú đè lên trên, mà ở dưới lại không có gì chống đỡ nên toàn bộ bùn đất phía dưới đạo động đã sụp xuống, khiến chú và đất đá cùng lăn vào trong mộ thất.

Cái hang trên tường mộ kia là ai đào ra vậy? Không lẽ trong lúc vô tình mình đã đào trúng cái đạo động mà đám người nhà ông bô dùng để chui vào huyệt mộ năm xưa? Có lẽ nào lại trùng hợp đến vậy sao?

Chú Ba ngẫm nghĩ, cảm thấy đúng là có khả năng đó. Bản lĩnh của mình đều do ông bô truyền dạy, mà bản lĩnh của ông bô lại do người đời trước rèn luyện cho. Vì cái nghề trộm mộ này bắt đầu xuống dốc từ sau thời nhà Thanh, cho nên kỹ thuật trộm mộ đều là dựa vào vốn cũ hết chứ chẳng phát triển thêm được bước nào. Nên đào đạo động ở đâu, đào đạo động như thế nào, tất cả đều phụ thuộc vào một cái quy tắc chết tiệt hết, đệ tử do một thầy dạy dỗ gần như 100% sẽ đào đạo động ở cùng một vị trí.

Tạm thời không suy nghĩ đến chuyện này nữa, chú tỉ mỉ quan sát xung quanh một lát. Phía sau lối vào đã bị bùn đất trượt xuống bít kín, cái xẻng không biết đã kẹt lại ở chỗ nào trong đất, muốn trở về bằng đường cũ e rằng hơi khó. Có điều, chú cũng chẳng lo cho lắm. Đã có thuốc nổ mang theo người đây, nếu ra không được thật thì cứ việc bùm một phát khoét luôn cái cửa trên trần là xong béng.

Mộ thất được xây thành hình tứ giác quy chuẩn, vòm trần và bốn phía đều có những phù điêu đơn giản. Mộ thất không rộng nhưng khá cao, bên trong nước đọng đến tận ngang hông. Đồ bồi táng chắc hẳn nằm ở dưới đó, nhưng với cái ao nước đen ngòm thế này thì căn bản cũng chẳng thấy được phía dưới có những gì.

Trên bức tường bên trái có một cánh cửa mở, nhiều khả năng là hành lang của tòa mộ cổ này.

Chỉ dựa vào những thứ này thì không thể nào đoán ra được thời kỳ lịch sử và địa vị xã hội của chủ nhân mộ cổ lúc sinh thời. Nhưng từ chiều cao của mộ thất thì có thể thấy chủ mộ này rõ ràng không phải nhân vật lớn cỡ vương hầu gì đâu.

Một cái mộ cổ bình thường thôi. Mộ thất thì có đấy, quy cách dĩ nhiên cũng không hề kém, vì sau thời cổ đại, người có được phòng xây bằng gạch đã chẳng còn nhiều. Nếu dùng hẳn gạch để xây mộ, thì chủ mộ kiểu gì cũng phải thuộc giai cấp quan lại trở lên. Có điều, cho dù có là quan lại, thì thường thường đa số các ngôi mộ này đều không có cơ quan bẫy rập nào quá tà môn, bởi vì năng lực của bọn họ chỉ có hạn. Dù ở triều đại nào đi chăng nữa, những thợ thủ công bậc thầy - đặc biệt là những người có kiến thức xây dựng lăng mộ - đều chỉ phục vụ cho một người là hoàng đế mà thôi. Hơn nữa bọn họ cả đời đại để cũng chỉ có thể cống hiến duy nhất một lần. Phần lớn những thợ thủ công bậc thầy đều bị chôn sống khi phong bế hoàng lăng. Đây cũng là nguyên nhân vì sao Trung Quốc có nhiều thứ bị thất truyền đến thế.

Chú Ba định thần một lát, rồi lội nước đi vào trong hành lang tối như hũ nút. Nước lạnh buốt, lực cản lớn, khi bước đi làm gợn lên những lằn sóng, phát ra thứ tiếng khiến người ta khó chịu vô cùng.

Sàn mộ thất nằm dưới nước cũng không bằng phẳng. Chú nhiều lần vấp phải mấy thứ gì đó, suýt nữa ngã nhào. Bây giờ chú chẳng dám nghĩ xem mình đang giẫm lên cái gì nữa. Nếu nơi đây đúng là ngôi mộ cổ năm đó được ghi lại trong bút ký thì những vật chú giẫm lên, ngoại trừ mấy thứ đồ bồi táng ở đây, có thể còn là di hài của các bậc trưởng bối nữa. Chuyện này đã quá kích thích rồi, thôi tốt nhất là đừng nghĩ tới nó.

Hành lang dài khoảng 20 mét, đi hết rất nhanh. Sau hành lang là một gian mộ thất lớn hơn nữa, bốn phía không có mặt tường nào thông ra hành lang khác. Chú Ba biết đã vào đến hậu điện, tiến thêm vài bước nữa thì thấy ở chính giữa mộ thất có một bệ quan tài, nhô cao lên khỏi mặt nước.

Chú Ba chiếu đèn pin sang, không khỏi nuốt nước bọt đánh ực một cái, chân bắt đầu mềm oặt ra.

Chỉ thấy trên bệ đặt quan tài là một cái quan tài bằng đá, nắp đã bị bẩy lên, không biết đi đàng nào mất rồi. Tình cảnh này cũng chưa phải dạng hiếm gặp, nhưng thứ khiến chú có phần sợ hãi, ngoài chuyện đó ra, chính là hai bộ xương khô đang mục ruỗng. Cả hai bộ xương đang tựa vào chiếc quan tài mất nắp, y phục trên người rách nát tả tơi hết cả, hai cái xác đã bị phân hủy hoàn toàn, da thịt dính liền vào làm một với quan tài đá, vì chú đang đứng ở khá xa nên không thấy rõ là thuộc triều đại nào, nhưng chắc chắn không phải nô lệ tuẫn táng.

Chú Ba thoáng sửng sốt một lát, toàn thân ớn lạnh không dám lại gần. Trong lòng chú thầm nhủ, hai cái xác này lẽ nào lại chính là người nhà mình đã chết trong cổ mộ năm đó?

Cổ mộ, chú không phải mới vào lần đầu. Xác chết trong cổ mộ, từ lâu chú cũng đã luyện thành tư tưởng cứ lờ tịt đi, cứ coi mấy cái xác đó chẳng qua chỉ là một loại đồ vật. Thế nhưng những cái xác chú đang gặp lúc này đây lại rất có thể chính là của người nhà mình, trong lòng chú chợt dấy lên một cảm giác khiếp sợ không tên, tim đập dồn kịch liệt.

Chú lò dò đi đến bệ đá chính giữa mộ thất, toàn thân run lên bần bật, đèn pin cũng cầm không chắc. Trước tiên chú quan sát cái quan tài đá, thì thấy một mảng máu khô đét đóng cục dưới đáy quan tài. Mặt trong quan tài hình như còn được bọc tơ lụa, nhưng lại không thấy thi thể đâu cả. Chú lại ghé sát vào hai bộ hài cốt nhìn thử một cái, chỉ thấy thi thể mục nát gần hết rồi, đầu còn trơ lại mỗi hộp sọ, không sao đoán được có phải người nhà mình hay không. Nhưng chú Ba bỗng thấy trên tay một trong số hai cái xác có cầm một khẩu pạc-hoọc[], bên trên khắc mấy chữ mờ tịt: Ngô Đại Quý, chính là tên của ông cố nhà mình.

[2] (thc ra cũng không cn thiết nhưng c ghi cho vui~) Súng pc-hoc - nguyên văn là "hp t pháo", có ngun gc t súng Mauser c96 . Đây là loi súng copy trái phép mu súng lc bán t đng ca hãng súng Đc Mauser, được s dng ph biến vào thi Dân Quc~ TT^TT

Đầu gối chú Ba liền nhũn ra, chú quỳ sụp xuống nghiêm chỉnh dập đầu lạy hai cái. Chú Ba chẳng phải là người chu đáo giàu tình cảm gì cho cam, hành động lúc này của chú hẳn chỉ là một loại bản năng thôi.

Dập đầu quỳ lạy xong, chú Ba quay ra xem xét khẩu pạc-hoọc, thấy nó đã rỉ ngoèn hết xài từ lâu bèn ném qua một bên, xem xét đồ đạc trong cái quan tài đá. Chú đeo bao tay rồi thò vào trong áo quan, sờ sờ ấn ấn lớp tơ lụa dưới đáy quan tài.

Sau khi ấn một cái, chú Ba biết chắc thi thể cũng không nằm dưới lớp tơ lụa mục nát. Ngược lại, chú mò được một thứ có hình khuyên tròn giấu bên dưới lớp uế vật nát bấy như tương ở đáy quan tài. Chú hồi hộp với vào sờ thử, thì ra là một cái khuyên sắt.

Chú Ba đặt đèn pin lên mép quan tài đá rồi đưa hai tay nắm lấy cái khuyên sắt, dùng sức kéo một phát. Chỉ nghe đánh "cạch" một tiếng, đáy quan tài bất chợt vênh sang một bên, lộ ra một cánh cửa ngầm.

Não bộ chú Ba như nhảy giật lên một cái. Thật chẳng ngờ, cái huyệt mộ này không chỉ có một tầng. Chú lập tức móc bật lửa ra, toan ném vào bên trong cửa ngầm để xem phía dưới rốt cuộc là chỗ nào. Không ngờ chú vừa thò tay xuống thì chợt thấy ánh lửa soi tới một cái mặt quái dị chằng chịt nếp nhăn ló ra khỏi cửa ngầm.

Chương 5. Gương mt quái đn

Chú Ba tôi lúc đó choáng quá, đầu óc liền ong lên, lỗ chân lông trên da đầu cũng nổi lên ầm ầm. Chú hét to một tiếng rồi buông tay ra, cánh cửa ngầm vừa được nâng lên lại sập xuống đánh sầm một cái, nện thẳng vào bộ mặt quái đản vừa thò ra kia.

Chú Ba cũng không dám nhìn xem cánh cửa sập xuống ra làm sao, mà lập tức giật nảy người về phía sau theo phản xạ, tránh xa xa khỏi cỗ quan tài đá, tí nữa thì quả tim cũng nhảy vọt ra ngoài theo cuống họng.

Chú Ba thầm than, trời ơi đó là cái thứ gì vậy?! Lẽ nào trong ngôi mộ cổ âm khí đã thoát sạch này vẫn còn một con bánh tông? Không thể nào! Bánh tông là vật chết, là thứ không có sinh khí, một khi cửa mộ bị mở, mộ khí bên trong thoát hết ra, không khí bên ngoài tràn vào, thì dù có là cương thi lợi hại đến mấy cũng sẽ biến thành cái xác nằm sõng xoài chỉ trong một thời gian ngắn, bắt đầu thối rữa thêm lần nữa. Chứ nào có cái lý lại thi biến được những mấy chục năm như thế, thật chẳng hợp lẽ thường.

Vả lại, bộ mặt quái gở vừa nhìn thấy trong chớp mắt kia thật khó hình dung. Xưa nay chú Ba chưa bao giờ thấy một bộ mặt nào gớm ghiếc đến thế, chắc chắn đó chẳng phải là loại bánh tông bình thường.

Hay chẳng lẽ, thứ này chính là bánh tông máu trong truyền thuyết? Chú Ba chợt nghĩ như vậy. Tuy nhiên khi suy xét ra, chú cảm thấy vô cùng bất an.

Trường Sa là nơi có nhiều truyền thuyết về huyết thi nhất. Thông thường, hễ cứ đào được trong cổ mộ ra loại đất thịt màu đỏ, thì bất kể tình hình trong mộ như thế nào, cũng vẫn bị người ta gọi là mộ huyết thi.

Đất đỏ còn được gọi là huyết địa, một xẻng xọc xuống đất là dính máu. Không ai giải thích được đất này hình thành như thế nào, nhưng trong mọi trường phái phong thủy, cách nói về chuyện vùi thây đất máu đều giống đến kinh người. Đó là nơi thích hợp cho việc đào sâu chôn chặt. Táng ở đất này thì sát khí cực nặng, con cháu sẽ hưởng vinh hoa phú quý khôn cùng, tuy nhiên người thân sẽ chết sạch không còn một ai. Nói không chừng còn có thể làm đến hoàng đế, nhưng toàn bộ người trong nhà sẽ bị khắc cho đến chết.

Dù truyền thuyết là như vậy, nhưng vẫn có rất nhiều danh gia vọng tộc chỉ vì muốn con cháu được vinh hiển mà dày công tìm kiếm dạng đất quỷ quái bí hiểm này.

Để tránh sát khí, trước khi nhập táng, phải tìm một gia đình nghèo khó trong dòng tộc, đưa con mình sang đó nhận làm con thừa tự, sau đó lại đón về nhà mình nuôi.

Tuy nhiên, thiên hạ rộng lớn, bảo huyệt hay sát huyệt đều hiếm có như nhau. Huyết địa lại càng hiếm, còn khó kiếm hơn cả long mạch bình thường. Về sau, đa số mấy ông thầy phong thủy nửa mùa hễ cứ thấy nơi nào đất màu đỏ thì cứ phán là huyết địa, vì vậy, thường thường, cứ dưới đất đỏ ắt sẽ có cổ mộ, mà cổ mộ ắt sẽ thuộc về một danh gia vọng tộc nào đó, cho nên mới có câu chuyện "thây máu giữ vàng" là vậy.

Trung Quốc thời cận đại, có một nhân vật vô cùng quan trọng. Mộ chủ của nhà ông ta nằm chính tại huyết địa, năm xưa một vị cao nhân đã thiết lập thế trận phong thủy để kịp lúc nhập mộ. Tương truyền, ông cố của nhân vật kia không phải chết một cách bình thường. Nhân vật đó quả thực về sau nắm quyền khuynh thiên hạ, nhưng đúng như trong phong thủy thuật số, sát khí quá nặng, dòng trực hệ của ông ta chủ yếu đều chết sạch. Mãi đến sau này, khi mộ tổ nhà ông ta bị phá hoại, tình hình mới bắt đầu khá khẩm lên, thế nhưng vận số của ông ta cũng theo đó mà ngày càng lụn bại như tụt dốc không phanh.

Do huyết địa thật giả lẫn lộn, mà hàng rởm lại chiếm phần nhiều, cho nên năm ấy, ông nội của ông nội tôi mới dám mạo hiểm hạ xẻng cầu may một bận. Chẳng ngờ một xẻng này lại đào trúng phải một cái của nợ hàng thật giá thật lại còn zin.

Mà mộ huyết thi thật sự thì hung hiểm vô cùng. Riêng từ việc trên thế giới không có bất kỳ một văn bản hay một câu chuyện truyền miệng nào về huyết thi là ta có thể hiểu được phần nào. Người gặp phải huyết thi, gần như không một ai sống sót toàn mạng trở ra. Ông nội tôi là một trường hợp đặc biệt, nhưng mà ghi chép trong bút ký của ông cũng chẳng rõ ràng cho lắm. Huyết thi rốt cuộc là cái thể loại gì, chính bản thân ông cũng không biết, phải khắc chế nó như thế nào thì lại càng mù tịt hơn. Nếu như cái thứ ở bên dưới căn hầm kia thật sự là huyết thi, cứ coi như tạm thời bỏ qua câu hỏi vì sao nó vẫn còn ở trong này đi, thì vấn đề phải thoát thân như thế nào đã đủ nan giải lắm rồi.

Mấy cụ khốt nhà ta lần trước vào huyệt mộ này, hiển nhiên là đã mang theo móng lừa đen. Lúc đó bọn họ mỗi người còn đều giắt một khẩu pạc-hoọc băng đạn hai mươi bốn viên. Trang bị đến tận răng như thế mà ngay cả một người cũng không thoát nổi, chứng tỏ tình hình lúc đó nguy hiểm khủng khiếp đến mức nào. Bản thân chú cũng tự biết mình lại càng chẳng ăn thua gì rồi, chỉ có độc một con dao quắm giắt trên lưng. Cầm dao quắm mà chém bánh tông thì khác quái nào mài dao, đây là cái trò đần độn nhất, một tí tác dụng cũng chả có.

Trong một giây đồng hồ, chú Ba đã kịp lùi lại một bước, đầu óc quay cuồng cứ như bay. Về vụ huyết thi, chú không có mảy may một chút manh mối nào cả, cho nên cũng chẳng nghĩ ra được biện pháp đối phó nào sất.

Đang lúc hoảng loạn không biết phải làm sao, đột nhiên từ mặt trong quan tài phát ra tiếng đá mài vào nhau liên tục. Tiếp đó, chú thấy phiến đá chèn lên căn hầm ngầm kia ấy vậy mà lại bị thứ gì đó đẩy lên.

Chú Ba lập tức biết là không ổn, thứ đó muốn ra ngoài!

Lúc ấy chú hơi đờ đẫn ra rồi, sau đó, cũng chẳng biết nghĩ cái gì nữa mà đầu óc nóng phừng lên như phát sốt lên, sát tâm trỗi dậy. Chú hạ quyết tâm, hét lớn một tiếng, rồi nhảy béng vào trong quan tài, hai chân vận sức đạp mạnh một phát, thoắt cái đã giẫm uỵch lên trên phiến đá đang bị đẩy lên.

Nhìn xuống xem thử thì thấy ở phía dưới phiến đá có một bàn tay người quắt queo xanh lè xanh lẹt thò lên, móng tay dài gấp hai lần ngón. Cả cái bàn tay cứ như đồ bằng đồng đã bị rỉ sét mọc đầy đốm xanh, hiện giờ đang bị chú Ba đè xuống, kẹt cứng trong khe hở.

Chú Ba tôi nhìn thấy cái tay kia, lập tức cảm thấy sau lưng da gà da vịt sởn hết cả lên. Chú bèn vận sức đạp mạnh một phát, những muốn bẻ cho nó đứt đoạn ra. Nhưng cái tay đó rắn đanh y hệt thép đã tôi, giẫm huỳnh huỵch vài cái mà vẫn chẳng mảy may suy suyển.

Sau đó, từ dưới phiến đá lại có một lực đẩy mãnh liệt thúc lên. Chú Ba vốn đứng không vững cho lắm, suýt tý nữa thì té nhào. Chú vội vàng hạ thấp trọng tâm, ổn định cơ thể, hai tay tỳ vào hai bên quan tài.

Đây là một cuộc đọ sức giữa sự sống và cái chết. Một khi thứ bên dưới ra được khỏi quan tài, trong hoàn cảnh này, chú Ba biết mình chắc chắn sẽ tiêu đời, tuyệt đối không có một cơ may nào để mà trông chờ vào đâu.

Nhưng sức lực con người chỉ có hạn. Chú Ba chống chọi được vài cú thúc, hai cánh tay đã đến giới hạn chịu đựng, một tẹo sức lực cũng không đào đâu ra nổi nữa. Phiến đá bên dưới vẫn từng chút từng chút bị húc dịch lên trên, kế đó, gương mặt quái gở nọ liền len ra khỏi phiến đá, nhìn chòng chọc chú Ba với vẻ mặt trơ trơ.

Bên trong quan tài tối đen, không dễ để nhìn rõ, bộ mặt âm u quỷ quái cũng mờ mờ mịt mịt, cả căn mật thất lại yên tĩnh đến mức không nghe thấy bất cứ một âm thanh nào. Tình cảnh lúc này quả thực quái dị không thể gọi tên.

Ngay lập tức, da đầu chú Ba tê rần cả lên, lỗ chân lông toàn thân gần như quắn quéo đến rụt cả vào trong da thịt. Chú nhủ thầm, xui thấy má luôn, giờ phải làm gì mới được đây? Chú cúi thấp đầu, nhìn xuống bên hông mình, toan tìm thuốc nổ giắt trên người, lòng đã nuôi ý định chết chùm với địch.

Tìm cả nửa ngày, thuốc nổ chẳng thấy đâu, nhưng chú Ba lại tìm ra chai rượu lận lưng của mình. Thổ phu tử với rượu một tấc không rời. Họ luôn luôn mang rượu mạnh theo người, thứ nhất là có thể chống lạnh, thứ hai là cũng có thể tăng lòng can đảm.

Chú Ba nhìn bình rượu, trong đầu chợt lóe lên một ánh sáng, chú bèn nảy ra một ý.

Vạn vật trên đời sinh thì cần nước, hủy thì cần lửa. Chú đã nghe một đạo sĩ từng nói về phương pháp xử lý bánh tông trực tiếp nhất giữa cả trăm ngàn vạn cách. Móng lừa đen gì đó cũng chỉ là ngón nghề dùng vào những khi vạn bất đắc dĩ mới là thượng sách thôi, còn bình thường, lúc khai quan, nếu phát hiện bánh tông có dấu hiệu thi biến thì trước hết phải tưới rượu trắng lên xác, tiếp đó đầu chân hai đằng hò dô cùng nâng xác dậy, hất ra khỏi quan tài rồi cho một mồi lửa, có hung đến mấy thì cũng hung hết nổi.

Nghĩ tới đây, chú lập tức đè trọng tâm xuống, tay trái móc ra bình rượu từ bên hông, nện thẳng một phát vào bộ mặt quái đản nọ. Cái chai vỡ vụn, rượu tóe lên khắp mặt con quái. Tiếp đó, chú liền móc lấy bật lửa, bật xoẹt bên cạnh một nhát rồi dí về phía bộ mặt quái gở kia. Chú nhủ thầm: xin lỗi nhé người anh em, không phải tao muốn đốt mày đâu, nhưng mà thật sự là chúng ta người và quỷ không chung đường, thôi mày cứ yên tâm mà làm bó đuốc đi vậy.

Chiếc bật lửa dí sát vào gương mặt quái gở. Dưới ánh lửa, bộ mặt quỷ quái kia bắt đầu rõ ràng hơn.

Đúng lúc này, chú Ba đột nhiên dừng tay lại. Chú phát hiện thấy bộ mặt này hình như có điểm bất bình thường.

Chương 6. S tht không th chp nhn ni

Lúc mở cánh cửa ngầm ra đã giật mình gào ầm lên, lại thêm mặt đối mặt với cái "thứ" này cũng chỉ trong có chừng nửa giây, bị hù cho một trận chết khiếp như thế, chú không quan sát kỹ được dáng vẻ diện mạo của nó, trong đầu chỉ có một ấn tượng chung chung mà thôi. Nhưng bây giờ, trong tình thế cò cưa kéo xẻ căng thẳng vô cùng, dưới ánh lửa bập bùng, bộ mặt đó hiện lên rõ mồn một như tạc vào trong mắt chú Ba.

Chú Ba vừa nhìn liền cảm thấy khiếp sợ. Trước giờ có con bánh tông nào là chú chưa từng gặp qua cơ chứ, ướt có khô có, không đầu có hai đầu cũng có, bình thản có mà dữ tợn cũng có luôn. Chú thuộc loại trời sinh thần kinh thép, từ sau năm mười lăm tuổi dù có thấy cũng chưa bao giờ sợ hãi trước ba cái thứ này, thế nhưng, riêng cái bộ mặt này thì, bà mẹ nó chứ, quá tà môn rồi.

Khuôn mặt con quái vật kia có màu đồng thau, da thịt nhăn nhúm, toàn bộ lớp da nứt toác thành hình vảy cá, một bên mặt bị bóc tróc hết cả. Hai con mắt không có đồng tử, nhưng vẫn khiến người ta cảm thấy ớn lạnh như thể đôi mắt ấy đang nhìn chòng chọc vào mình.

Chú Ba suy nghĩ mãi, cảm thấy thứ này không giống bánh tông chút nào. Bánh tông dù trông có xấu xí khó nhìn thế nào đi nữa, ít nhất cũng vẫn phải ra hình người. Còn thứ này, không hiểu sao nhìn kiểu gì cũng giống một con rắn! Vậy chẳng phải đây chính là yêu quái hay sao?

Vả lại, điều khiến chú Ba càng thêm buồn bực chính là, càng nhìn vào bộ mặt này, trong lòng lại càng dấy lên một cảm giác quái gở, nhưng là cái cảm giác gì thì chú thật sự không thể tả nổi. Cứ thế, mồ hôi bất chợt tứa ra đầm đìa khắp cổ chú.

Bế tắc trong một chốc vẫn chưa xuống tay được, mà bản thân hai cánh tay của chú càng ngày càng kiệt sức. Con quái vật kia nét mặt không đổi, cứ thế tìm cách lách lên trên. Chú Ba biết trong giờ phút này không thể đoán mò lung tung được nữa, lập tức quăng bật lửa vào thẳng cái mặt kia. Phừng một cái, lửa cháy bùng lên ngay lập tức.

Rượu mà chú Ba thích là một loại rượu Thiêu Đao Tử có màu xanh biếc, hình như người Thượng Hải còn gọi nó là Lục Đậu Thiêu. Rượu chú Ba uống là do chính dân quê tự cất lấy, toàn là rượu nền[1] có nồng độ cồn rất cao, châm một cái là bắt lửa ngay. Loại rượu này đến giờ chú vẫn thích uống, mỗi tội đến cái tuổi này rồi, uống rượu nặng chả khác nào uống thuốc độc mãn tính cho chết từ từ.

Chẳng mấy chốc, bộ mặt kia đã chìm trong ngọn lửa , không còn thấy rõ nữa, chỉ thấy khắp cung quanh khói trắng bốc lên mù mịt, da thịt nó bắt đầu chảy nhớt ra, một thứ mùi cực kỳ khó ngửi xông thẳng vào mũi.

Đồ bồi táng trong quan tài phần lớn đều được trùm một lớp tơ lụa rữa nát ẩm ướt, giờ bị nướng âm ỉ nghe cháy xèo xèo, nhưng lại không hề trực tiếp bén lửa.

Chú Ba ráng hết sức nhịn thở. Được khoảng sáu bảy phút, cồn trong rượu đã cháy sạch, chú Ba mới phát hiện chiêu này bắt đầu có tác dụng. Lực đẩy từ dưới lên trên dần dần yếu đi. Theo thế lửa ngày càng nhỏ lại, bộ mặt kia cũng ruỗng ra đến gần như tan biến, chỉ còn lại cái đầu lâu đã bị đốt cháy đen thui.

Lửa vẫn tiếp tục thiêu đốt thêm khoảng hơn mười phút nữa mới hoàn toàn tắt lụi, bấy giờ chú Ba mới nới lỏng chân, lực đẩy bên dưới đã biến mất rồi.

Chú Ba sợ có biến, vẫn chưa thả lỏng hoàn toàn cơ bắp dưới chân, một tay vẫn tiếp tục tì lên thành quan tài, tay kia rút con dao quắm bên hông, thò xuống khều thử cái đầu lâu kia.

Khều khều vài cái, thấy nó không có phản ứng gì, chú Ba liền dùng sức nhắm cổ nó chém hai phát, chém đứt xương cổ nó xong mới thở phào một hơi, xác định rằng thứ đồ chơi này đã thực sự đi đời.

Vừa được thả lỏng, toàn thân chú lại mất hết cả hơi, sức lực trên hai cánh tay biến mất tiêu, chân cẳng mềm nhũn ngã phịch vào trong quan tài hớp hớp từng hơi hổn hển. Cũng may mà mình nhanh trí, trở về lại có cái để ba hoa rồi.

Cơ mà rốt cuộc đó là cái thứ gì nhỉ? Xác chết mà trông đáng sợ đến thế, nó thật là huyết thi sao? Chú vốn cho rằng đã là huyết thi thì hẳn khắp mình mẩy phải đầm đìa máu me, nhưng cái thứ ban nãy đâu có giống thế.

Nghĩ đoạn, chú nhặt cái đèn pin nằm lăn lóc một bên lên, kẹp giữa hai hàm răng, lại ì ạch kéo phiến đá đậy cửa ngầm dưới đáy quan tài đá một lần nữa.

Con bánh tông máu không đầu nằm thẳng cẳng trong căn hầm dưới phiến đá, đó là một cái xác ướt[2] của nam giới, vóc dáng cao lớn. Quần áo rữa nát gần hết, chỉ còn lại một đống sợi vải dính vào người, toàn thân có màu đồng thau rỉ sét lốm đốm. Điều kinh khủng nhất là khắp mình mẩy nó mọc đầy những nếp da nhăn nheo trông như những con mắt.

Chú Ba ấn một cái xuống lồng ngực cái xác, cảm thấy rắn đanh như sắt, không khỏi lấy làm mừng. Nếu vừa rồi sức mình chống không lại, để cho nó chui tọt ra ngoài thì súng ống cũng chưa chắc đã trị nổi nó, khi ấy đảm bảo mười phần thì chín phần cầm chắc cái chết.

Chú nhảy vào trong, đạp chân sang hai bên cho vững, toan lôi con huyết thi ra để nhìn kỹ thử xem. Nhưng đúng lúc đó, chú Ba đột nhiên thất thần. Một cơn ớn lạnh khủng khiếp bỗng chốc chạy từ giữa gan bàn chân xông thẳng lên gáy.

Chú chợt phát hiện ra, cánh tay phải của con bánh tông máu ở trong căn hầm dưới phiến đá kia, ấy vậy mà lại chỉ còn có một khúc! Cẳng tay và bàn tay tính từ khuỷu tay trở xuống đã không cánh mà bay từ bao giờ.

Chú Ba nghe tim phổi đập bình bịch trong lồng ngực, đầu óc nhất thời loạn cào cào. Chú lập tức cúi xuống nhìn cánh tay bị chặt đứt kia thì thấy da thịt ở vùng bị chặt rối tung lên như sợi bông, giống như là bị nổ tung nên đứt lìa vậy. Chú Ba bỗng thấy toàn thân mềm oặt, ngã ngồi xuống đất.

Tôi vẫn đang cảm thấy lời kể của chú Ba rườm rà quá đi mất, nhưng vừa nghe đến chuyện con bánh tông máu ấy chỉ còn có một cánh tay, tôi lập tức hiểu ra ngay lý do vì sao chú Ba lại phải miêu tả kỹ càng đến vậy.

Miệng vết thương có tình trạng bị nổ đứt, da thịt lưa tưa như sợi bông chỉ có thể là do súng bắn phá ở cự ly ngắn. Nói cách khác, cánh tay của con bánh tông máu này đã bị súng bắn đến mức đứt lìa.

Dựa trên tình huống này, cộng thêm những ghi chép trong bút ký của ông nội và cả nét mặt của chú Ba, tôi đại khái cũng đoán ra được sự việc rồi. Ngay lúc ấy, tôi cũng cảm thấy một cơn ớn lạnh đến sởn tóc gáy chạy khắp lưng.

Nhưng nếu sự việc quả thực là như vậy, thế thì toàn bộ chuyện này cũng thật khó có thể tưởng tượng nổi, nghe như tình tiết trong tiểu thuyết liêu trai ấy, tôi cảm thấy không tin cho lắm.

Chú Ba lần mò trên người, toan tìm thuốc hút, nhưng dĩ nhiên là trên người chú chả có điếu nào. Tôi lục lọi trong cái túi quần sau mông, thấy còn nửa bao Vân Yên , mua lúc ở quán bar Happy với Bàn Tử, bèn đưa luôn cho chú Ba.

Chú Ba châm thuốc, rít mạnh một hơi, rồi mới nói tiếp: "Khi tìm thấy cái bánh tông máu kia, chú mới hiểu ra, ông già nhà chú, cũng tức là ông nội mày ấy, mấy thứ ổng ghi trên cuốn sổ rách nát đó có lẽ còn có ẩn tình chi đây. Cũng chợt hiểu ra, vì sao khi chú hỏi năm ấy đã có chuyện gì xảy ra, ổng lại không muốn nhắc tới."

Hồi đó, về những thứ được ghi trong cuốn bút ký, dù chúng tôi có gặng hỏi thế nào đi nữa ông nội cũng chỉ nói có một câu, rằng đây không phi chuyn con nít nên nghe. Lúc ấy chúng tôi không biết vì sao, nhưng giờ cuối cùng cũng đã hiểu, chỉ có điều, không ngờ sự thật là khủng khiếp đến vậy.

Chú Ba liếc tôi một cái rồi nói: "Thằng cháu cả, mày thông minh lanh lợi đến thế, chắc chắn là không cần chú nói mày cũng biết tỏng chuyện gì xảy ra rồi."

Tôi không dám gật đầu, vì chuyện tôi vừa nghĩ đến thật sự chẳng dám nói ra lời.

Đọc bút ký của ông tôi thì biết, trước khi ông tôi giựt sợi thừng ra được một cánh tay đứt đang nắm chặt quyển sách lụa Chiến quốc, trong cổ mộ từng vang lên một tràng tiếng súng pạc hoọc. Nói cách khác, lúc ở trong cổ mộ, ông trẻ tôi có lẽ đã bị nguyên một băng đạn pạc hoọc bắn cụt tay phải.

Mà con bánh tông máu trong hầm tối ở ngôi cổ mộ kia cũng không có cánh tay phải, hơn nữa miệng vết thương cũng có dạng lưa tưa như sợi bông vì bị nổ. Như vậy chỉ có một khả năng rất cao, đó là con bánh tông máu kia vốn không phải một cái xác cổ, mà chính là ông trẻ tôi thi biến mà thành!

Theo suy đoán của tôi, mọi chuyện có lẽ đã xảy ra như thế này:

Khi mấy người bọn họ chui vào trong đạo động, tất nhiên là cũng phát hiện ra căn mật thất ẩn dưới quan tài đá giống như chú Ba. Dựa vào tính cách của ông trẻ được miêu tả lại trong bút ký, chắc chắn ông sẽ giành làm người đi tiên phong, nhất định phải đi trước người khác bằng được, do vậy, ông hẳn chính là người đầu tiên chui xuống mật thất dưới đáy quan tài.

Mà cũng lại trong gian mật thất kia, ông trẻ đã phát hiện ra cuốn sách lụa Chiến quốc. Ngay khi ông cầm lấy sách lụa, định rời khỏi mật thất thì đột nhiên xảy ra một biến cố gì đó rất hãi hùng.

Lúc biến cố mới phát sinh, có lẽ ông vẫn còn có cơ ứng phó, vốn vẫn còn có thể thò tay ra khỏi mất thất được, nhưng chờ đến khi ông nghĩ ra được điều này thì đã quá muộn. Trong tình huống bất đắc dĩ, có lẽ tự bản thân ông, hoặc là cụ cố tôi, đã nổ súng cắt phăng cánh tay ông trẻ.

Cánh tay đứt được ông nội ở bên ngoài dùng con chuột đất kéo ra khỏi cổ mộ, còn ông trẻ bị nhốt ở bên trong mật thất, cuối cùng biến thành một con quái vật vô cùng đáng sợ.

Cụ cố và kỵ tôi ở ngoài gian mật thất đã cố gắng hết sức để cứu ông trẻ ra, cuối cùng cũng bị liên lụy, chết ở bên cạnh quan tài.

Tuy nhiên, còn cái thứ đỏ như máu đuổi theo ra ngoài mộ thất lúc cuối cùng và cái xác khổng lồ với gương mặt to bè quái dị kia là gì? Trong này giải thích không rõ ràng cho lắm. Tôi cảm thấy có khả năng cái thứ đỏ như máu kia chính là ông trẻ tuy gặp nạn nhưng vẫn còn sót lại chút ý thức, có điều, lúc bấy giờ ông nội tôi không thể tưởng tượng nổi đến điều này, cho nên cứ tưởng ông trẻ là quái vật trong mộ cổ.

Đương nhiên, sự việc có chính xác là như vậy hay không thì chỉ có người trong cuộc mới biết. Chứ bây giờ cứ ngồi phỏng đoán, cho dù có giải thích được hợp lý đến mấy thì cũng vẫn chỉ là phỏng đoán mà thôi.

Tôi lựa lời mà nói suy nghĩ này của mình ra cho chú Ba nghe. Chú nhìn tôi với vẻ mặt phức tạp, rồi khẽ gật đầu.

Bấy giờ, tôi nghĩ đến một vấn đề, bèn hỏi: "Nhưng mà, ông nội đã từng nói 'đây không phi chuyn con nít nên nghe', chứng tỏ ông cũng biết lúc đó có thể mình đã nổ súng bắn chính anh trai mình. Đáng ra ông không thể biết được chuyện này mới đúng, như vậy, có khi nào về sau ông nội đã từng trở lại ngôi một cổ đó một lần nữa rồi chăng? Mà trong bút ký lại không thấy ghi những chuyện xảy ra tiếp theo, có phải chính là bởi vì sự thật quá khủng khiếp?". Chú Ba nhíu mày đáp: "Chú mày cũng thắc mắc tương tự, nhưng điều này không thể nào kiểm chứng được nữa. Ông già chết rồi, chúng ta vĩnh viễn không bao giờ có thể biết được năm ấy đã thật sự xảy ra chuyện gì."

Tôi hỏi: "Vậy còn tiếp đó? Chú có xuống mật thất dưới đáy quan tài không?" Chú Ba lại rít mạnh một hơi khói, cháy hết gần một phần năm điếu thuốc rồi hỏi lại: "Nếu mày là chú thì có chịu nhịn, không leo xuống được không?"

Tôi thầm cười khổ, tự nhủ nếu cháu mà là chú thì đã sợ chết ngắc ngay từ lúc mở cửa ngầm rồi, làm gì còn cơ hội nào để cân nhắc xem có nên xuống dưới hay không nữa. Tôi lắc đầu bảo: "Thôi thôi làm sao mà cháu so với ngài được ạ, lá gan của thằng cháu ngài ngài biết tỏng rồi còn giả bộ. Mà thôi chú đừng lấp la lấp lửng nữa, nói mau đi xem nào, rốt cuộc trong mật thất kia có cái gì thế?"

Chú Ba thở dài nói: "Chú cho mày xem thứ này trước đã, rồi hẵng từ từ kể cho mày nghe." Nói xong, chú lôi ba lô của mình ra khỏi chiếc tủ cạnh giường bệnh, rồi lấy từ trong đó ra một cái hộp ngà voi nhỏ.

Tôi cầm lấy, nhìn thử thì thấy đó là cốt một cái hộp tráng men triều Thanh, còn ở dạng bán thành phẩm, chưa tráng men màu lên trên, rất nặng. Tôi mở ra xem thì thấy trong hộp có một viên đá cuội màu đen xấu xí, trông cứ như loại đá cuội ta thường bắt gặp trong mấy đống cát ở các công trường xây dựng thời nay ấy.

"Đây là cái gì?" Tôi lấy làm kỳ lạ, bèn hỏi.

"Hòn đá đó là thứ chú lấy ra từ trong gian mật thất kia." Chú Ba trả lời.

Tôi "a" lên một tiếng: "Chính là thứ này sao?" rồi cẩn thận xem xét viên đá, nhưng nhìn mãi vẫn không thấy có gì kỳ lạ hết. Tôi vừa định nhón tay cầm lấy thử xem thì chú Ba đã đậy cái hộp lại. "Đừng động vào, thứ này nguy hiểm đấy." Chú bảo.

Tôi trả lại cái hộp cho chú, nói vẻ khó hiểu: "Đây hình như chỉ là một hòn đá bình thường thôi mà, trong cái mật thất quỷ quái đó mà lại có cái này à?"

Chú Ba thở dài. Hình như người lên đến tầm tuổi của chú rất thích thở dài thì phải. Chú nói: "Mày đừng có khinh thường nó, lúc ấy chỉ vì lấy cái thứ này mà chú suýt nữa mất mạng đó."

Sau khi đoán ra chân tướng của huyết thi, chú Ba sợ đến thất thần, ngồi đờ ra dưới đất một lúc rất lâu mới từ từ hồi lại được, lòng dạ rối bời như mớ bòng bong. Nhìn cánh cửa vào mật thất cách có hơn hai bước, chú tự hỏi trong bóng tối kia rốt cuộc có sức mạnh thần bí gì mà có thể biến một con người trở thành cái bộ dạng như thế.

Chú Ba cũng giống tôi, là kiểu người mệnh phạm Thái Cực, tuyệt đối chịu không nổi đòn tra tấn của sự tò mò. Chỉ có điều lá gan tôi quá nhỏ, thường xuyên chịu cả lòng hiếu kỳ lẫn sự sợ hãi dằn vặt tra tấn, còn chú Ba thì không như thế. Chú chỉ hơi do dự một chút, rồi ngay lập tức quyết định xuống dưới mật thất xem xét để biết cho thấu đáo mọi sự.

Giờ ngồi ngẫm lại mới thấy đây thực ra là một quyết định cực kỳ không sáng suốt, chắc cũng chỉ có người như chú Ba mới có thể ra ra cái quyết định như trên trong tình cảnh này.

Ông nội tôi sở dĩ không chịu dạy cho chú Ba quá nhiều bản lãnh, cũng là vì chú làm việc quá manh động. Sự thật chứng minh ông tôi nhìn người hơi bị chuẩn, mỗi tội là trước những kinh nghiệm của bậc lão luyện, đám trẻ trâu lại thường bỏ ngoài tai.

Nghỉ ngơi một lát rồi chú Ba liền bắt tay vào chuẩn bị. Trước tiên chú thu nhặt lấy hài cốt của mấy vị tiền bối, cởi áo khoác, xé toang ra rồi gói hai bộ xương nằm bên cạnh quan tài vào chiếc áo. Sau đó chú đeo bao tay vào, dùng thừng trói xác luồn qua hai nách của huyết thi, kéo ra khỏi quan tài, cung kính đặt ở một bên, rồi đem cái đầu lâu bị chặt cụt đặt trở lại. Chú quay về phía ba cỗ thi hài, dập đầu ba cái thật dứt khoát rồi khấn: "Thằng cháu bất tài Ngô Tam Tỉnh, đầu óc ngu dốt, đã mạo phạm di thể tổ tiên, xin các ngài thứ lỗi."

Dập đầu xong, chú gài lại con dao quắm lên hông, lại lấy kíp nổ ra giắt vào đai lưng, nhìn tổng thể toàn thân, xác định tất cả không có sơ hở gì.

Chú tập trung tinh thần, đi đến chỗ quan tài, lại kéo cánh cửa ngầm lên một lần nữa, cẩn thận xem xét bên trong.

Đằng sau cánh cửa ngầm quả nhiên là một con đường hầm dốc nghiêng xuống dưới. Có điều, không ngờ là trần đường hầm này rất thấp, thấp đến độ gần như chỉ có thể nằm rạp xuống bò vào.

Cửa vào đường hầm kích cỡ chỉ bằng cỡ cái quan tài. Con "bánh tông máu" kia trước đây cũng nằm trong đường hầm này. Cũng may dưới này không gian chật hẹp, con "bánh tông máu" kia dù trời sinh rất khỏe cũng không thể vận dụng được hết sức mạnh, bằng không, chỉ với sức của chú Ba thì lấy cửa gì mà đòi chặn lại được nó?

Trước hết, chú Ba mở bật lửa ném vào trong. Ánh lửa lăn lông lốc một đường, rơi thẳng vào sâu trong đường hầm, cuối cùng dừng lại, trở thành một nguồn sáng nho nhỏ chiếu sáng một khoảng.

Tiếp đến, chú sờ sờ lên con dao quắm bên hông, nói một tiếng xin tổ tiên phù hộ rồi hít một hơi, cẩn thận từng ly từng tí nâng người lên, từ từ chui vào bên trong đường hầm.

Trong đường hầm tràn ngập một mùi tanh hôi khó mà dùng lời mà tả được. Chú Ba nhoài người nằm rạp xuống, không thể không nhịn thở, di chuyển vào bên trong. Đợi khi thân thể lọt vào toàn bộ rồi, chân kéo cửa ngầm ở phía trên một cái, cửa ngầm tự đóng sập xuống.

Trong chốc lát bốn phía yên tĩnh khác thường, chỉ còn tiếng bật lửa cháy leo lét ở phía trước. Chú Ba có chút căng thẳng không rõ nguyên nhân, mồ hôi hột chợt tứa ra ướt đẫm khắp thân người. Chú cố gắng trấn tĩnh lại một lát, lấy đèn pin bật lên chiếu sáng trước mặt.

Ánh đèn pin so với bật lửa thì mạnh hơn nhiều, trong chốc lát đã chiếu đi rất xa. Chú thấy đường hầm này do những phiến đá màu đen xếp thành, đại khái cứ ba mét một phiến, từng phiến từng phiến liền kề nối tiếp nhau, thông thẳng một mạch vào sâu tít phía trong. Toàn bộ đường hầm sạch sẽ khác thường, những phiến đá đen bốn phía cũng được giữ cho cực kỳ trơn nhẵn, không trang trí bất cứ thứ gì, thoáng nhìn trông giống đường ống thông gió của loại điều hòa trung ương kiểu cũ.

Độ lớn và màu sắc của ngọn lửa phát ra từ chiếc bật lửa phía trước đều rất bình thường. Không khí trong đường ngầm chắc hẳn là có lưu thông với bên ngoài, nên việc hít thở không thành vấn đề.

Chú Ba lấy lại bình tĩnh, cắn đèn pin lên miệng, bắt đầu bò vào sâu trong đường hầm.

Tôi cùng từng có kinh nghiệm bò trong đường hầm chật hẹp, nên biết đó hoàn toàn không phải việc nhẹ nhàng. Tuy chú Ba khỏe hơn tôi rất nhiều nhưng mới bò lên vài bước đã thấy thở hổn hển, cộng thêm thỉnh thoảng còn phải đề phòng xung quanh nên bò lại càng thêm vất vả.

Bò được chừng mười phút đồng hồ thì phía trước có chỗ ngoặt, chú Ba bèn vòng qua. Chú cứ tưởng phía sau vẫn là đường ngầm tương tự, nhưng vừa ngoặt một cái, chú liền phát hiện trước mắt hiện ra một bức tường đá đen có khắc phù điêu.

Mới đầu, chú Ba rất sững sờ, ngây ngẩn một lúc lâu mới ý thức được, hóa ra đã đến hết đường hầm rồi.

Thế này là thế nào? Chú choáng váng, vốn tưởng rằng phía cuối của đường ngầm sẽ có một cánh cửa, sau đó có một gian mật thất nữa, mà tất cả mọi bí mật có lẽ sẽ đều nằm trong gian mật thất đó.

Thế mà bây giờ lại chẳng có cái gì cả. Đường hầm chỉ hơi dài một chút, rồi có một bức tường đen lớn chặn kín lối đi.

Không lẽ nữa xưa khi ông trẻ vào trong đã động chạm phải cơ quan nào đó, khiến đường hầm bị bịt kín hay sao?

Chú Ba gõ lên tường đá, thấy hình như phía sau tường đều đặc kín, lại xem xét mối nối ở bốn phía, phát hiện tường đá đã được gắn chặt vào chỗ này. Nói cách khác, đây chẳng phải là cơ quan gì cả, mà đúng là cuối của đường hầm thật rồi. Năm đó ông trẻ chui vào chắc cũng đã bò được tới đây.

Thế thì kỳ lạ quá. Nếu chỗ này là điểm cuối của đường hầm, vậy thì đây nhất định là chỗ ông trẻ trộm được cuốn sách lụa mang ra. Nhưng ở đây làm gì có cái gì đâu? Sách lụa chiến quốc năm đó đã được đặt ở chỗ nào? Không lẽ lại quăng trên mặt đất à?

Chú Ba đánh một vòng, xem xét bốn phía phần cuối đường hầm, rồi quan sát kỹ bức tường đá chặn đường kia một lúc.

Đúng lúc ấy, bức phù điêu trên tường đá đã thu hút sự chú ý của chú.

Đó là một vị thần mặt người mình chim, thân chim tựa loài cú đêm, mà mặt người thì cực kỳ cổ quái. Thủ pháp điêu khắc vô cùng cường điệu, gương mặt lớn như cái chậu rửa chân, miệng há hốc, tóc mai bồng bềnh, nét mặt vô cảm, chẳng biết là nam hay nữ.

(Tôi nghe đến đó liền 'a' lên một tiếng.)

Chú Ba chú ý thấy trên miệng bức phù điêu có một chỗ hơi lõm vào, so sánh bằng hình ảnh một chút thì có thể thấy ngày trước cuốn sách lụa có lẽ đã được cuộn lại, đặt trong miệng phù điêu.

Có điều miệng của phù điêu lại đúc đặc. Nói cách khác, sau khi lấy cuốn sách lụa ra sẽ không có cơ quan nào được khởi động.

Chú ngẩng đầu nhìn xem các bộ phận khác trên mặt phù điêu, mũi, tai, mắt, cuối cùng, ánh mắt chú dừng ở lại ở con mắt của bức phù điêu, nhìn chòng chọc.

Phù điêu mặt người thân chim có bốn con mắt, còn chạm trổ đồng tử hình tròn, nhưng kỳ quái ở chỗ đồng tử của hai con mắt bên trên lồi lên, còn đồng tử của hai con mắt phía dưới lại lõm vào. Có thể nói, đây chính là hai phương pháp chạm khắc phù điêu, là khắc âm và khắc dương.

Chú Ba xưa nay chưa bao giờ gặp phải chuyện như thế này. Không chỉ là chú mà ngay cả tôi cũng biết điều này tuyệt đối là không thể xảy ra được. Tất cả các loại phù điêu nếu không khắc kiểu dương hết thì là khắc kiểu âm hết, không thể sử dụng lộn xộn xen lẫn ở cùng một nơi.

Chú Ba tiến đến ghé sát vào nhìn, không khỏi "a" lên một tiếng. Chú phát hiện, hóa ra hai đôi đồng tử kia không hề chạm khắc gắn liền thành chỉnh thể với bức phù điêu, mà chỉ là ở vị trí mỗi con mắt đều có một viên đá cuội xấu xí màu đen được khảm vào trong hốc mắt. Điều kỳ quặc chính là, hai viên đá của hai con mắt phía trên vẫn còn, nhưng hai viên đá của hai con mắt phía dưới đã bị người ta cạy ra, chỉ còn lại hai hốc mắt hình cầu.

Chú Ba ngắm nghía hai con mắt kia, cảm thấy mọi thứ bắt đầu dần dần sáng tỏ, một phỏng đoán cực kỳ táo bạo xuất hiện trong đầu chú.

.

Chú thích.

[1] nguyên là "基酒" (cơ tửu), hay tiếng Anh là "base liquors", dùng để chỉ rượu chủ đạo trong pha chế. Trong trường hợp ngữ cảnh ở đây thì mình nghĩ 基酒chỉ đơn giản là để chỉ loại rượu thuần, gần giống như rượu trắng, cay nồng, không có mùi vị đặc biệt thôi.

Chú thích thêm vì thích =]]]]]] Cocktail là đồ uống pha trộn của nhiều loại rượu và các hương liệu/ thành phần khác nhau, nhưng luôn cần một loại rượu chủ đạo để làm nền, gọi là base. Rượu nền dung chứa được những thành phần hương liệu/điều vị/điều sắc và giữ được nguyên vẹn được hiệu quả về mùi hương/vị/màu sắc của các thành phần đó trong hỗn hợp cocktail. Ví dụ, thường nói một ly cocktail có brandy-based thì tức là ly cocktail đó có rượu nền là brandy. Các loại rượu nền thường dùng, mạnh thì là vodka, whiskey, gin, rum, tequila..., nhẹ thì có rượu mùi.

Một ly cocktail thường có 3 thành phần chính là base, main flavoring (tăng mùi thơm và tạo vị dễ uống cho base) và special flavoring (điểm nhấn cho hương vị và màu sắc cho base) ~

[2] xác ướt: xác cổ lúc khai quật lên có ngoại hình hoàn chỉnh, bên ngoài thân hơi ẩm ướt, nội tạng còn đầy đủ, cơ thể vẫn đầy đặn, tứ chi và các khớp xương vẫn có thể vận động được mà không bị căng cứng; khi giải phẫu ra thì các cơ quan lớp lang rõ ràng, mạch máu dây thần kinh không bị hư hại gì, trên da có thể xuất hiện các khối u cục từ muối của axit béo, xương cốt ít nhiều cũng có hiện tượng mất chất vôi.

Bo-nút thêm hình khẩu pạc hoọc phát (〜 ̄▽ ̄)〜

Chương 7. Cu Thiên Nương Nương bn mt

Theo lời chú Ba, vị thần đầu người mình chim trên bức tường đá này đã từng xuất hiện trong truyền thuyết, thần thoại của nhiều vùng đất, nhiều dân tộc. Tôi tin rằng nó và lũ quái điểu mà chúng tôi gặp ở Vân Đỉnh Thiên Cung đều cùng là một loài sinh vật.

Về sau khi tìm hiểu kỹ tôi mới biết, vị thần này còn được người Ai Cập cổ đại gọi là: "Ba", tượng trưng cho linh hồn bất tử của con người. Nói cách khác, nếu là ở Ai Cập cổ đại, ma quỷ nhà bọn họ đều đức hạnh ghê gớm như vầy đó. Còn ở bên Ấn Độ thì chuẩn mực hơn được một tý, loại thần này được gọi là "Ca-lăng-tần-già"[], truyền thuyết kể rằng, chúng là loài chim thần cư ngụ trên núi Tuyết sơn, véo von ca hát cho cõi cực lạc của Phật Tổ.

Ở Trung Quốc, loài chim này còn nổi tiếng hơn cả ở hai nơi kia. Đầu người mình chim, chính là "Cửu Thiên Huyền Nữ nương nương"[] của Trung Quốc, hình như trong "Kinh Thi" hay "Long Ngư Hà Đồ", hoặc là cuốn sách cổ nào đó khác (mà tôi thật sự nhớ không ra), người đã dạy Hoàng Đế nội hàm sâu xa của các loại kỳ môn độn giáp và "Long Giáp Thần Chương" chính là vị này đây.

Ngoài ra còn rất nhiều truyền thuyết khác nữa, có thuyết còn cho rằng Cửu Thiên Huyền Nữ chính là Tây Vương Mẫu, tuy nhiên đa phần các truyền thuyết rất lộn xộn, cho nên những thứ này không thể kiểm chứng được. Thậm chí, dưới thời Lục Triều, có một lượng lớn những ghi chép của Đạo Giáo cho rằng "Huyền Nữ" là người đã truyền lại cho Hoàng Đế kỹ thuật chăn gối. Không biết bà Huyền Nữ này có phải là Huyền Nữ kia chăng, chứ bị cái thứ như thế kia chỉ dạy kỹ thuật phòng the thì chắc chắn không phải chuyện sung sướng gì. Phải tôi, tôi thà chết quách cho xong. (nghĩ đi đâu vậy :v)

Vậy lúc chú Ba nhìn thấy bốn con mắt trên bức phù điêu, chú đã nghĩ đến cái gì?

Khi ấy, chú đã suy tính như thế này:

Trên trán bức phù điêu có bốn vết lõm, hẳn là phải có bốn hòn đá cuội được khảm vào. Hiện giờ chỉ còn hai viên, vậy chắc chắn hai viên còn lại đã bị người ta lấy mất. Mà trong cổ mộ thì không thể nào có người thường xuyên lui tới. Như vậy, người lấy mất hai viên đá kia, tám chín phần là ông bác ruột nhà mình năm xưa.

Những điều này đều rất đơn giản, ai cũng có thể nghĩ ra được, khỏi phải giải thích thêm ở đây nữa.

Vấn đề quan trọng là: 2 viên còn lại kia, tại sao vẫn ở nguyên vị trí cũ?

Thổ phu tử không coi trọng việc "Để phần cho con cháu nó hưởng". Nếu ông bác nhà mình đã có hứng thú với thứ đá cuội này thì tại sao lúc đó không gỡ hết xuống mà cầm đi, còn chừa lại hai viên làm gì?

Chú ba lại nghĩ tới kết luận lúc nãy của mình: tai họa đã biến bác Hai thành như vậy, chắc chắn đã xảy ra trong mật thất này.

Thế nhưng trong đây lại không có chỗ nào kỳ quái hết, chỉ là một không gian bốn phía bị bịt kín mà thôi.

Điều lạ lùng duy nhất chính là bốn viên đá này. Hai viên đã bị lấy xuống, chả có nhẽ bác Hai lại cố tình để lại 2 viên kia? Như vậy, lẽ nào sự cố năm xưa đã xảy ra ngay khi bác Hai gỡ hai hòn đá đó xuống? Sau khi gỡ được hai viên đá rồi, do đột nhiên gặp phải chuyện gì đó nên ông không còn thời gian lấy nốt 2 viên còn lại sao?

Chú Ba nghĩ đến đây, bỗng nhiên thông suốt. Giả thiết về viên đá và toàn bộ câu chuyện được xâu chuỗi vào với nhau không sơ hở chỗ nào. Chú vội vàng sáp lại gần bức phù điêu, quan sát thật kỹ hai viên đá cuội màu đen ma quái kia.

Đá được khảm rất sâu vào bức phù điêu. Cả bức phù điêu trông như liền một thể, nếu không nhìn kỹ thì sẽ không thể biết được nó và tường đá là hai bộ phận tách biệt. Sở dĩ chú ba thoáng nhìn đã phát hiện ra là do trong đó đã có hai viên bị lấy mất, chứ lúc đầu cả bốn viên mà còn ở nguyên đó, nếu không có khả năng quan sát đáng nể thì đừng hòng phát hiện ra được. Xem ra, ông bác nhà mình năm xưa cũng không phải là nhân vật đơn giản.

Tuy nhiên, nếu nạy mấy viên đá này xuống thì sẽ dẫn đến chuyện gì cơ chứ? Phía sau tường đá chắc chắn không có bẫy rập, vậy chẳng lẽ là đá có độc hay sao? Không thể nào, mới nãy chú vừa chạm vào rồi mà.

Chú Ba hơi do dự, một cảm giác kích động không thể kìm nén dâng lên trong lòng chú. Chú quyết định cứ nạy một viên xuống xem sao.

Chú Ba rút con dao quắm ra, quẹt dăm phát lên vách tường bên cạnh để mài rồi mới run rẩy mò sang. Chú dùng mũi nhọn gõ gõ thử lên một viên đá, sau đó lách con dao vào một khe hở rồi nạy ra. "Cách" một tiếng, một viên đá đã rơi vào lòng bàn tay chú.

Viên đá vừa rơi xuống một cái, chú Ba lập tức lùi lại một bước, cảnh giác quan sát bốn bên, chỉ sợ có cái bẫy bí mật nào đột nhiên khởi động.

Thế mà lại chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Viên đá trong lòng bàn tay chú lạnh như băng, im lìm. Bốn phía cũng không có động tĩnh gì lạ. Phù điêu vẫn là phù điêu mà bức vách thì cũng vẫn là bức vách.

Chú Ba đợi thêm tý nữa, chắc chắn không có chuyện gì xảy đến mới thở phào nhẹ nhõm, nhưng trong lòng chú lại buồn bực. Chẳng lẽ giả thiết ban nãy của mình sai rồi? Hay là, sự cố năm đó chỉ có thể bị kích hoạt một lần, bây giờ có làm gì đi nữa cũng không khiến nó xảy ra được?

Chú cất kỹ viên đá cuội này, lại cạy tiếp viên còn lại. Thứ tự hành động vẫn như cũ, lách lưỡi dao vào một bên khe hở. Lúc này chú đã trấn tĩnh hơn một chút, sức lực cũng mạnh hơn, gảy một cái, lại nghe "cách", viên đá khẽ động rồi văng ra.

Chú Ba vội vàng đỡ lấy, nhưng viên đá lại bắn đi quá nhanh, chú không kịp phản ứng. Loáng cái, nó rơi xuống đất nghe "bịch" một tiếng, cứ như tiếng một quả bóng cát rơi xuống nền xi-măng, vừa rơi đã vỡ tan thành bụi đất. Viên đá màu đen làm cuộn lên một đám bụi màu đồng thau, thoắt cái đã lan ra mù mịt trong không khí.

Chú Ba giật mình một cái, nhủ thầm "thôi xong". Chú ho khan một tiếng, phẩy phẩy tay quạt không khí, thấy trong miệng toàn một thứ mùi hăng đến cay xè. Nghĩ đến màu sắc trên người con huyết thi, theo bản năng, chú cho rằng đám bụi đất này dễ chừng có độc, bèn vội vàng lấy áo che mặt, thối lui về phía sau.

Lùi được vài bước, chú lập tức nhìn lại chỗ viên đá rơi xuống ban nãy. Chỉ thấy trên mặt đất nơi viên đá vỡ nát, ngay chính giữa đống bụi phấn màu đồng thau, bỗng dưng có một con bọ màu đỏ bò ra. Nó cuộn mình lại, kêu "chin chít".

Chú Ba vừa thấy con bọ, trong đầu liền nổ oành một tiếng, bất giác cơ thể rụt cả về phía sau.

Bởi vì vừa nhìn một cái là chú đã nhận ra loài bọ này rồi. Đó là một con bọ ăn xác, nhưng lại không giống với loại thường gặp. Bọ ăn xác màu đỏ, theo lời các vị bô lão trong nhà từng bảo thì kịch độc không gì sánh bằng, là ác quỷ trong loài sâu bọ, dính vào máu là hết đường sống, chạm nhẹ một cái là trúng độc liền.

Nhưng nghe nói loài bọ ăn xác màu đỏ này chỉ sống được trong các xác ướp cổ, gần như không ai không gì có thể bắt được nó, sao lại có thể bị người nhốt vào trong một hòn đá như thế này? Rồi còn khảm vào trong bức phù điêu đây nữa? Mà quái lạ nhất là, con bọ bị nhốt trong viên đá này, sao vẫn còn sống được?

Chú Ba cảm thấy vô cùng kỳ dị. Có điều, chú lập tức nhận ra mình không còn thời gian suy nghĩ chuyện này nữa. Trên mặt đất, con bọ nhỏ màu đỏ xoay vài vòng, dần dần duỗi cái thân ra, bắt đầu rung rung cái cánh, bò bò trên đất, hình như là chuẩn bị bay.

Trước đó chú Ba chưa từng gặp bọ ăn xác chúa, không biết độc tính của nó có lợi hại đến mức như lời kể không, chỉ biết nếu chuyện đó có thật, trong không gian nhỏ hẹp như thế này, con bọ này mà bay lên một cái thì chẳng khác nào tuyên án tử hình cho mình.

Chú cẩn thận từng li từng tí, nhích dần ra sau vài bước, lật ngang con dao quắm định đập chết nó nhân lúc nó chưa bay. Còn chưa kịp đập xuống, chú chợt nghe những tiếng "kèn kẹt kèn kẹt" vang lên từ phía dưới con dao, sau đó một bóng đỏ bay vụt ra, rồi đậu ngay lên chính vai chú!

Tốc độ của chớp sáng đỏ ấy quá nhanh, chú Ba căn bản không thể né kịp được. Chú giật mình một cái, sợ đến mức mồ hôi lạnh tứa ra đầm đìa, con dao trên tay theo phản xạ vung về phía sau một cái, đập vào chính vai mình. Con bọ ăn xác chúa thấy động liền bay lên, đậu ở một bên tường.

Lúc này con bọ ăn xác chúa đã hoàn toàn tỉnh hẳn. Nó bắt đầu đập cánh, không ngừng phát ra những tiếng "kèn kẹt kèn kẹt" như tiếng ếch nhái kêu. Một mùi thối hăng xè không ngừng toát ra từ trên thân con bọ.

Chú Ba vừa suy xét tình huống, bụng bảo dạ thôi không xong rồi. Cái thứ bỏ mẹ này còn khó đối phó hơn cả huyết thi, ở lại đây thì chỉ cầm chắc cái chết. Ba mươi sáu chước, chước chuồn là hơn, thôi thì té lẹ. Nghĩ đến đó, chú liền co người lại, rón rén lùi dần về phía cửa vào con đường hầm.

Trong đường hầm chật hẹp không thể xoay người được, chú chỉ còn nước bò ngược, lăn lê bò toài mà lủi xuống chỗ cửa đường hầm. Phúc bảy mươi đời là khi quay đầu nhìn sang bên, con bọ màu đỏ đó cũng không bám sát lấy chú.

Chú Ba lấy lại bình tĩnh, lần mò tìm cái chốt của cánh cửa ngầm. Nhưng do đang hoảng, tay chú run rẩy ghê gớm, gần như không thể điều khiển được chính mình.

Khó khăn lắm mới lần mò được cái chốt, đẩy cánh cửa ngầm lên, chú Ba vừa thở phào nhẹ nhõm thì đột nhiên một luồng sáng đỏ với vận tốc nhanh như chớp bay vọt ra từ trong bóng tối của đường hầm. Tốc độ của nó cực nhanh, cứ như dịch chuyển tức thời trong phim viễn tưởng vậy, chưa gì đã xông thẳng vào mặt chú Ba. Trong nháy mắt, con bọ đã vọt đến ngay trước mặt chú rồi.

Chú Ba thầm kêu một câu "Thôi chết", định trốn nhưng đã muộn. Đúng lúc chỉ mành treo chuông đó, giữa cái khó chú ló cái khôn, bèn rụt cổ lại, sau đó dốc hết sức bình sinh thổi mạnh một phát về phía con bọ.

Từ hồi phải thổi lửa bếp lò chú Ba đã luyện được một dung tích phổi khá đáng nể. Hơi chú rất khỏe, thoắt cái đã thổi vù một cái khiến con bọ ăn xác lạc phương hướng, ngã vật ra rồi đập bộp vào tường.

Nhân cơ hội này chú Ba liền vung tay, nghiêng người lộn từ trong đường ngầm ra ngoài, rồi trở tay đè cửa hầm chặt cứng.

Con bọ chúa phía dưới dường như cũng cùng lúc đi theo, nhưng giờ nó đã chậm một bước, cánh cửa ngầm đã bị bịt kín. Nó "bụp" một tiếng liền đâm phải cửa đá rồi ngã xuống, cứ thế liên tục kêu những tiếng "kèn kẹt kèn kẹt" .

Chú Ba chỉ thấy da đầu tê dại, toàn thân bủn rủn. Chú ngã phịch xuống bên cạnh quan tài, mới phát hiện ra toàn thân mình đều ướt đẫm mồ hôi, phải lâu lắm mới dầu dần khá lên được.

[Tôi đã nếm mùi lợi hại của bọ ăn xác chúa, nghe đến tên thôi cũng toát mồ hôi lạnh, vội vàng bảo chú kể ngắn gọn thôi, không cần tả sinh động đến như thế. ]

Sau đó, chú Ba cảm thấy nơi này không thể ở lâu, cũng chẳng cố kiết gì nữa, bèn thu dọn đồ đạc, đào đường hầm quay ngược lại, khuân di cốt của mấy vị tổ tiên trèo ra ngoài mộ cổ.

Chú chọn một chỗ kín đáo hỏa thiêu cái xác, sau đó men theo đường núi đi suốt đêm về thị trấn. Theo cách nói của chính chú thì, khi lên đến đỉnh núi cũng vừa lúc mặt trời ló dạng, chú ngắm vầng thái dương, lần đầu tiên cảm thấy được đứng trên mặt đất tuyệt vời đến thế nào.

Sau này khi trở về Trường Sa, chú Ba không kể lại việc này cho bất cứ ai, kể cả ông nội. Nhưng từ đó chú ôm một niềm hứng thú say mê với cuốn sách lụa Chiến Quốc, bèn bắt đầu âm thầm nghiên cứu. Tuy nhiên, đám bạn bè của chú Ba lúc bấy giờ không phải du côn thì cũng là lưu manh, chẳng có lấy một mống biết làm việc bàn giấy, điều tra nguyên cả nửa năm cũng chẳng ra được kết quả nào. Viên đá mang ra từ trong đường hầm chú cũng tìm rất nhiều vị tiền bối nhờ xem hộ, nhưng họ đều chẳng nói ra được cái đầu cua tai nheo gì.

Chú Ba nản lòng nhụt chí, dần dần mất đi hứng thú. Cho đến tận trước chuyến đi Tây Sa, chú tình cờ gặp may, sự việc mới có cơ chuyển biến.

Hồi đó, một người bạn của chú mắc bệnh qua đời. Gia đình mời một gã đạo sĩ mũi trâu về làm lễ. Đạo sĩ thời đó cũng chỉ là nghề tay trái mà thôi, khoác tấm đạo bào vào là biến thành thầy cúng, cởi ra lại có thể là bất cứ ai, cũng chẳng có gì đáng coi trọng. Cúng bái xong xuôi, cả đám ngồi chè chén một bữa no say. Chú Ba cũng quên béng mất lúc ấy đã xảy ra chuyện gì, hình như là xỉn quá nên luôn mồm chém gió, lôi viên đá ra khoe khoang.

Nào ngờ gã đạo sĩ kia vừa thấy vật nọ mặt mũi liền biến sắc, lại ngửi ngửi, rồi đột ngột nói rằng đó không phải là đá đâu.

Chú Ba không thèm để mắt đến người này, có phần giễu cợt mà hỏi gã: "Không phải đá cuội thì là cái quái gì?"

Đạo sĩ nghiêm mặt nói với chú: "Đây là một viên linh đơn."

Đạo sĩ mũi trâu nói chắc như bắp, chú Ba thấy không giống kiểu ăn ốc nói mò. Chú tưởng gặp được cao nhân rồi, bèn kéo hắn ra chỗ không người, định hỏi cặn kẽ đầu đuôi. Ấy thế mà gã mũi trâu này cũng chỉ là loại nửa mùa, chỉ biết thứ này là đơn dược, lại không biết được lai lịch cụ thể của nó. Mà sở dĩ gã biết nó là đơn dược, cũng chỉ vì đạo quán nơi bọn gã trú ngụ cổ kính vô cùng, nghe nói có từ thời Ngũ Hồ Loạn Hoa [] cơ đấy. Ở đạo quán có rất nhiều đồ cổ truyền từ mấy đời, đều được giao vào tay gã trông coi, trong đó có rất nhiều công cụ luyện đơn. Trong số đó gã từng gặp loại đơn dược giống hòn đá thế này, cũng đã từng ngửi hương vị, cho nên mới dám khẳng định vậy đó.

Chú Ba không khỏi thất vọng, nhưng rốt cuộc cũng thấy ánh bình minh. Sau đó chú tới tìm mấy nhà kim thạch học[], bọn họ cũng công nhận rằng điều đó là chính xác. Vật nọ, quả đúng là một viên "Linh đơn".

Có điều cái món linh đơn này thuộc về lĩnh vực Huyền học, rất nặng tính cá nhân. Hầu như mỗi phương sĩ(*) đều có phương pháp luyện đơn của riêng mình, lại không có văn tự cổ để tham khảo, có mỗi một viên linh đơn thì cũng chả nhìn ra được cái quái gì. Ngược lại, gã đạo sĩ mũi trâu kia bảo với chú, rằng nếu thứ này được tìm thấy trong mộ cổ thì chắc chắn nó được người xưa coi là thuốc trường sinh bất lão rồi, vì chỉ có loại thuốc đó mới được người ta đem đi bồi táng.
(*) Nhng người luyn đơn, dưỡng khí, tu thin, khác đo sĩ.

Chú Ba nghe xong cũng thấy rất hoang mang, bởi vì chú biết trong viên linh đơn này chính là bọ ăn xác chúa. Đơn dược thông thường là thuốc uống vào trong bụng, mà thứ này ăn phải thì chết là cái chắc, thậm chí còn chết thảm ấy chứ trường sinh cái rắm gì.

Trăm mối tơ vò gỡ mãi chẳng ra, lăn lộn suốt hơn nửa năm, hầu như đường nào cũng thử hết cả mà vẫn chẳng có bất cứ tiến triển gì. Đúng lúc chú Ba chuẩn bị bỏ cuộc hoàn toàn, tính quăng viên linh đơn kia vào bồn cầu giật nước cho rồi, thì một chuyện không thể tưởng tượng nổi đã xảy ra.

_____________

Chú thích.

[1]Ca-lăng-tần-già là tên một loài chim quý, lông đen, mỏ đỏ, tiếng hót cực hay, êm ái, véo von hơn cả tiếng trời, thường sống thành cặp, không bao giờ rời nhau, sống trên Tuyết sơn (hay chính là Himalaya) phía bắc Ấn Độ. Tiếng hót của loài chim này thường được ví như pháp âm của Phật.

[2]Theo truyền thuyết, Cửu Thiên Huyền Nữ là thầy của Hoàng Đế, học trò của Tây Vương Mẫu, hình tượng thường thấy là nửa người nửa chim (mãi cho đến thời Tống mới được "nhân thần hóa" hoàn toàn, thoát khỏi hình tượng chim mà thành nữ thần cưỡi chim phượng đỏ, trên mây ngũ sắc, mặc áo thần cửu sắc). Khi Hoàng Đế đánh giặc Xi Vưu, bị Xi Vưu dùng phép thuật cho trăm dặm nổi mây mù, khiến quân của Hoàng Đế không phân được phương hướng. Thấy đánh mãi không xong,Hoàng Đế bèn lậpđàn cầu thần tới giúp. Vương Mẫu sai Cửu Thiên Huyền Nữ xuống trần, trao cho Hoàng Đế bùa binh tín lục giáp lục nhâm, roi Linh bảo Ngũ Đế, sách sai khiến quỷ thần, ấn chế ngự yêu ma thông linh ngũminh, lại dạy cách độn nguyên ngũ âm ngũ dương, bức hình Thái Nhất thập tinh tứ thần, khẩu quyết ngũ binh Hà đồ sách tinh, giúp Hoàng Đế diệt trừ Xi Vưu. Sau này bà còn giúp cho nhân gian nhiều việc nữa

Bô-nút thêm cái hình =3= Bên trái là con Bah, bên phải là tượng gốm Ca-lăng-tần-già (nguyên văn tiếng Ấn độ là Kalavinka) của Tây Hạ

Còn đây chính là Cửu Thiên nương nương bốn mắt trong truyện, hàng original chôm từ weibo của chính tác giả ╮( ̄__ ̄)╭

[3] Ngũ Hồ loạn Hoa (năm tộc Hồ làm loạn Trung Hoa) hay Ngũ Hồ thập lục quốc, là một giai đoạn loạn lạc tranh chấp diễn ra sau thời Tấn và trước thời Nam Bắc Triều, do tộc người Hồ phương Bắc kéo vào Trung Quốc và lập thành nhiều quốc gia nhỏ.

[4] Kim thạch học: là môn học nghiên cứu chữ khắc trên các văn vật bằng đồng và bằng đá (bao gồm cả ngọc).

Chương 8. Khúc do đu Tây Sa

HOÀNG SA - TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM

Vào những năm ấy, phong trào khảo cổ và trộm mộ đang đến hồi cao trào, hàng tá các đội thám hiểm nước ngoài đổ xô về châu Á, hòng kiếm chác chút đỉnh từ phát kiến vĩ đại trong đợt khảo cổ lần thứ hai này.

Bấy giờ, ngành khảo cổ dưới biển của Trung Quốc gần như là một con số không tròn trĩnh. Phải trơ mắt nhìn cơ man là quốc bảo bị người ta vơ vét sạch, người trong giới khảo cổ Trung Quốc sao không nóng lòng cho được. Có mấy vị giáo sư già cùng nhau kiến nghị lên cấp trung ương, đề xuất thi hành các giải pháp, nhưng về sau do hoàn cảnh bức ép, đòi tiền chẳng có tiền, đòi người chẳng có người, rốt cục đành giật gấu vá vai lập ra vài "đội khảo sát". Trong số đó có một đội được phái về Tây Sa, đó chính là đội do Văn Cẩm phụ trách.

Chuyện chú Ba không thể ngờ được đã xảy ra ngay trước khi đội khảo cổ lên đường khoảng chừng một tháng.

Lúc ấy, chú Ba đang lo liệu giúp Văn Cẩm một số trang bị dùng dưới đất, cùng với mấy thứ như máy bơm, thiết bị lặn. Những thứ này cấp trên có chịu trách nhiệm gì đâu, toàn do chú Ba một tay thu xếp hết. Một ngày nọ vào giữa trưa, khi chú Ba đang bận rộn điều chỉnh thử thiết bị, thì bỗng thấy một cậu học trò tiến tới, bảo rằng bên ngoài có người tìm chú.

Chú Ba thầm lấy làm kỳ lạ, có mấy ai biết dạo này mình xây ổ ở đây đâu, vậy người kia là ai? Đến lúc đi ra ngoài trông thấy người nọ rồi, chú liền không khỏi sững sờ.

Người đó họ Giải, tên Giải Liên Hoàn, hẳn là lấy từ câu "Oán hờn ôm mãi chẳng nguôi. Than sao người thương nỡ đoạn tuyệt, tin xa diệu vợi. Dẫu tay thần gỡ tương tư liên miên, như gió tan mưa tạnh vẫn còn bảng lảng sương mây"[1] đấy. Đó là anh em đằng ngoại nhà chú Ba, tính ra thì có thể coi như là ông chú họ xa của tôi, vì cùng sống ở Trường Sa nên bình thường vẫn tới chơi, nhưng cũng không thường xuyên lắm.

[1] Oán hoài vô thác, th loi tng t, tác gi Chu Bang Ngn, k v ni kh tương tư.

Nguyên văn đon trích: "怨怀无托, 嗟情人断绝, 信音辽邈. 纵妙手, 能解连环, 似风散雨收, 雾轻云薄." Phiên âm: "Oán hoài vô thác, ta tình nhân đon tuyt, tín âm liêu mc. Túng diu th, năng gii liên hoàn, t phong tán vũ thu, v khinh vân bc."

Dch nôm nghĩa đon trích:

Ôm oán hn không nguôi, y bi vì người thương n đon tuyt, tin tc thư t ca người li quá đi xa xôi, khiến lòng cht cha ni ai oán gin hn chng biết gi gm vào đâu, su này chng th gii. Tương tư như si xích, tương tư liên miên, vn không th g. Vi bàn tay khéo léo tuyt diu đến đâu, dù g được, nhưng cũng không th g được hoàn toàn, si tương tư du lìa ngó ý còn vương tơ lòng, ging như khi mưa tnh mây tan, khp tri vn bng lng mây mng sương mù.

[C bài có mi 8 câu, nhưng ngi gii nghĩa chi tiết hết ra thì có mà mt my trang word, nên ch thế này thôi =)))))]

Năm ấy, đối với chuyện này mà nói, đám chú Ba thì vẫn còn quen biết sơ sơ, chứ các cụ đời trước thì chỉ có ngày lễ ngày tết mới họp mặt một chốc, lễ nghĩa cứ gọi là nhạt như nước ốc. Loại họ hàng như vậy lại đột nhiên đến tìm, khiến chú Ba có phần bất ngờ.

Có điều, họ hàng đã đến thăm thì tất nhiên là không thể lạnh nhạt, cũng không tiện hỏi luôn mục đích đến đây của người ta. Chú Ba bèn hoãn việc đang làm dở lại, hàn huyên với gã một lát rồi kéo gã ra ngoài quán ăn cơm. Đến khi được độ nửa tuần rượu, chú mới hỏi gã tìm đến đây có chuyện gì.

Nhà họ Giải cũng là loại thế gia vọng tộc, anh em cả thảy những sáu người, còn đông hơn cả nhà ông tôi, đã như vậy thì chắc hẳn không phải là túng tiền rồi. Gã đã đến tìm chú Ba, tất nhiên phải có việc cần giúp đỡ, hơn nữa phải là việc gì đó đặc biệt lắm, bằng không làm gì có chuyện bọn họ không thể tự dàn xếp được cơ chứ.

Gã Giải Liên Hoàn kia õng ẹo một lúc lâu mới kể cho chú nghe, rằng thực ra cũng chẳng có chuyện gì to tát, chỉ là gã tính nhờ cậy mối quan hệ của chú, muốn xin một chân trong đội khảo sát của Văn Cẩm để ra biển xem xét một chút.

Chú Ba nghe xong liền cảm thấy có điều gì đó bất thường. Văn Cẩm xinh xắn đáng yêu, ai ai cũng quý mến, vì nhà họ Giải cũng là thân thích nên ít nhiều có quen biết nhau. Thế nhưng Văn Cẩm thái độ rất kín đáo, quen thì quen, nhưng quan hệ chẳng mặn mà thân thiết gì, càng không thể nói chuyện ngày thường tìm gặp nhau chơi. Thế mà không hiểu sao gã Giải Liên Hoàn này lại tự nhiên đưa ra cái yêu sách không biết điều như vậy, nhất định là có ý đồ rồi. Chú lập tức lắc đầu, hỏi: "Cái gì mà ra biển xem xét, chú muốn xem làm gì? Đi Hàng Châu mà xem không được à?"

Giải Liên Hoàn khó xử vò đầu, nói rằng chuyện này gã không thể kể được, nếu cứ nhất định phải biết, thì cứ coi như là gã hiện đang có một mối làm ăn ở ngoài đó đi. Gã cũng chỉ là được người ta nhờ vả thôi.

Chú Ba lại hỏi gã sao không tự đi mà tìm cách xoay sở đi, thuê một con thuyền đánh cá nào có đắt đỏ gì cho cam. Gã bèn phân trần, hiện giờ Trung Quốc với Việt Nam đang đối đầu về quân sự, khu vực Tây Sa kia là địa điểm vô cùng nhạy cảm, không có giấy phép của biên phòng thì tàu bè bình thường không thể ra vào được đâu, cho nên mới nhờ chú Ba giúp cho một bận, trà trộn vào đội khảo sát thì làm ăn gì cũng tiện, mà cũng tuyệt đối không làm ảnh hưởng gì đến Văn Cẩm.

Chú Ba càng nghe càng thấy quái lạ. Đặt gã thổ phu tử này vào chung với Tây Sa, nghĩ thế nào cũng thấy thật kỳ cục. Nói là có mối làm ăn, nhưng cái xứ Tây Sa đó thì có cái khỉ gì mà làm với chả ăn? Nói thật, ngoài đó ấy mà, chỉ rặt toàn nước với cát thôi, cùng lắm thì thêm mấy con tàu đắm. Mà muốn xuống coi tàu đắm thì cần quái gì phải ra tận Tây Sa, cứ đến Ninh Ba với biển Bột Hải là được. Hơn nữa, thời ấy nhà họ Giải cũng tính là loại có máu mặt, là gia tộc lâu đời tồn tại đã mấy trăm năm, không thể tự nhiên sa sút đến nỗi phải đi mò hàng dưới biển chứ?

Giải Liên Hoàn kia thấy chú Ba có vẻ khó xử, liền nói nếu không được thì thôi vậy, gã đành nghĩ cách khác.

Lúc ấy nếu mà là tôi, thấy gã nói vậy đảm bảo sẽ thở phào một hơi, thuận theo thời thế mà chối phắt luôn cho nhẹ nợ. Khổ nỗi chú Ba lại không nghĩ thế. Chú vừa nghe vậy, liền nhủ thầm không được rồi, chuyện này còn có điều kỳ quặc, nếu mình cự tuyệt thì thằng oắt này sẽ nghĩ cách khác thật luôn, mà cái ngữ nhà nó chẳng phải hạng công dân lương thiện gì, đến lúc đó nhỡ nó làm trò gì quái đản thì thật khó đề phòng. Giờ mình đã xây dựng được quan hệ với Văn Cẩm, không thể để cho nó phá thối, thôi thì cứ điều tra xem rốt cuộc là nó đang làm cái trò gì.

Vì vậy, chú bèn nói, không phải là không được, có điều là chú hơi khó xử, vì vấn đề này không phải chỉ mình chú quyết định mà được. Chú còn phải hỏi ý Văn Cẩm xem đã, chứ việc này không thỏa thuận luôn được đâu. Rồi chú hỏi Giải Liên Hoàn liệu có thể chờ thêm một thời gian ngắn nữa được không.

Giải Liên Hoàn nghe xong liền rối rít cảm ơn, còn lôi ra một đống hàng ngoại bấy giờ là của hiếm, nhờ chú Ba đưa cho Văn Cẩm giùm.

Cả hai mỗi người ôm một bụng âm mưu, tán gẫu mấy chuyện khác thêm một lát rồi gã Giải Liên Hoàn kia đi mất. Chú Ba lập tức đến tìm đám lưu manh du đãng mà chú quen, dúi cho ít tiền, bảo bọn chúng bám theo thằng đó, điều tra xem rốt cuộc là gần đây nó đang làm gì.

Hồi đó, đám lưu manh là cái hội nhạy tin nhất, không lâu sau đã báo về, nói rằng chúng đã bám theo Giải Liên Hoàn mấy ngày trời liền, thấy gã đích thị là một cậu ấm[2], thích nghe kịch hoa cổ[3], bạn bè cũng rặt một đám dân tứ chiếng, cực kỳ bình thường luôn. Nếu nói kỳ quặc, thì chỉ có mỗi một điểm kỳ quặc, đó là trong khoảng thời gian gần đây, không hiểu sao gã thường xuyên qua lại với một lão Tây xem chừng thân thiết lắm. Thường thường cứ dăm ba ngày là lại đến quán trà gặp lão Tây kia, nói chuyện cũng không được bao lâu, chừng mười phút đã đi mất.

[2] nguyên văn là "Nh thế t" (二世祖), xut phát t Tn Nh Thế thi Tn. Sau khi Tn Thy Hoàng băng hà, Triu Cao lôi kéo Lý Tư, gi truyn di chúc, hi chết con c ca Thy Hoàng là công t Phù Tô, đưa con nh ca Thy Hoàng là H Hi lên ngôi, xưng là Tn Nh Thế. H Hi ham mê tu sc, thích hưởng lc, giết chết anh ch em, dit tr trung thn, bo ngược vô cùng. Trong vòng ba năm ngn ngi, giang sơn rng ln Tn Thy Hoàng vt v lp nên đu b H Hi làm cho mt sch, nhà Tn tuyt dit. Cho nên t "Nh thế t" không ch có nghĩa là cu m, mà còn nghĩa là thng phá gia chi t.

[3] kch hoa c hay kch trng hoa là mt loi kch đa phương lưu hành H Nam (Trường Sa thuc H Nam), Hà Bc, An Huy...

Chú Ba nghe xong mà lấy làm lạ. Đối với nhóm bọn chú thì làm ăn buôn bán với người Tây cũng là chuyện thường tình, nhưng Giải Liên Hoàn thì khác. Loại như gã căn bản vốn không tham dự vào chuyện làm ăn của gia đình, ở nhà gã chỉ có mỗi việc tiêu tiền, sao tự dưng đi móc nối quan hệ với người Tây cơ chứ?

Chú Ba nghĩ, chuyện này hẳn có trò vui rồi, liền lập tức quyết định đích thân đi xem xét một phen.

Chú hỏi rõ quy luật gặp gỡ của Giải Liên Hoàn với lão Tây kia, rồi tự sắp xếp thời gian. Đến một ngày, chú đổi bộ quần áo tầm thường không bắt mắt, từ sáng tinh mơ đã lê la ngoài cửa nhà Giải Liên Hoàn chờ gã. Đợi được chừng một giờ thì thấy Giải Liên Hoàn ra ngoài. Chú Ba liền tiến đến, từ xa xa bám theo suốt đường. Đi theo gã phải đến nửa thành Trường Sa, tới khu chợ gạo hẩm thì quả nhiên đằng trước xuất hiện một quán trà. Giải Liên Hoàn cảnh giác ngó ra đằng sau xem xét, không phát hiện ra chú Ba, bèn gạt tấm mành bước vào bên trong.

Chú Ba mừng thầm, ba bước nhảy chỉ còn hai phóng vọt lên, đến chỗ cửa sổ nhìn một cái, thấy ngay Giải Liên Hoàn đang ngồi vào bàn, mà phía đối diện thì quả nhiên đã có một lão Tây ngồi yên vị.

Lão Tây kia đầu tóc màu bạch kim, lưng hùm vai gấu, cao to lực lưỡng, tuy nhìn không ra là người nước nào cả nhưng khí sắc khỏe mạnh, ngồi lừng lững trong quán trà cứ như một con gấu. Lúc này lão đang uống trà, cũng ra dáng phết, còn xỏ dép lào, trông dáng vẻ tự nhiên như vậy, đảm bảo là xông pha ở đất Trung Quốc này đã lâu, quen riết với văn hóa vỉa hè của Trường Sa rồi đấy.

Chú Ba quan sát lão Tây kia một lát, bỗng phát hiện ra người này nhìn mặt hơi quen quen, hình như đã gặp ở chỗ nào rồi thì phải? Chú không khỏi có chút buồn bực.

Số người Tây làm ăn với chú chỉ đếm trên đầu ngón tay là hết, chắc chắn là không có người này, thằng cha kia rõ ràng không phải khách hàng nhà chú. Nhưng mà, ở thời đại đó, cơ hội nhìn thấy người Tây ở Trường Sa ít lắm, đảm bảo không thể là gặp ngoài đường được. Vậy kẻ kia là ai đây?

Chú ráng sức lục lọi trí nhớ, hình dung lại hết một lượt tất cả những người nước ngoài mình đã gặp trong suốt mấy năm nay. Rồi bỗng nhiên giật mình một cái, chú chợt nhớ ra: lão Tây này, chính là một kẻ trong đám người ngoại quốc một năm trước chú đã trông thấy ở Phiêu Tử Lĩnh! Những gì trải qua năm đó có sức chấn động quá lớn, chú Ba nghĩ lại mà còn thấy kinh như mới ngày hôm qua. Đầu mối vừa được gợi ra, chú lập tức nhớ lại toàn bộ.

Cả người chú Ba lạnh toát . Chú dõi theo hai kẻ trong quán trà, đột nhiên cảm thấy mình ý thức được điều gì, nhưng lại không nắm bắt được hoàn toàn. Một dự cảm không lành bắt đầu trào lên trong lòng chú.

Nói tới đây, tôi bèn đưa tay ngắt lời chú Ba, bảo chú ngừng lại một lát. Tôi cần phải nghĩ đã rồi mới nghe tiếp được.

Theo lời chú Ba kể lại từ đó đến giờ, sự việc đã rất rõ ràng. Không còn nghi ngờ gì nữa, Giải Liên Hoàn muốn đến Tây Sa là để giúp lão nước ngoài bí ấn kia làm một việc, hơn nữa còn là một việc khá đặc biệt, bởi vì làm ăn buôn bán với người ngoại quốc bình thường ai cùng từng làm rồi, cần gì phải thần thần bí bí đến vậy làm gì.

Mà lão người ngoại quốc kia, lại là một trong số những kẻ định đục khoét hầm mộ huyết thi ở Phiêu Tử Lĩnh vào một năm trước. Khi đó chú Ba đã cảm thấy vô cùng quái lạ, bởi vì Phiêu Tử Lĩnh kia nằm trong một xó núi hẻo lánh của Trung Hoa, không phải là nơi mà người nước ngoài có thể dễ dàng xuất hiện. Mà bây giờ, đám người này lại còn muốn nhờ người đến hải phận Tây Sa, đây cũng là địa điểm mà người nước ngoài càng không nên xuất hiện, vì bấy giờ ở đó đang có chiến tranh.

Lúc ấy, chú Ba còn chưa biết dưới Tây Sa có một ngôi mộ cổ, cho nên có nhiều chuyện chú chỉ ngờ ngợ chứ không suy đoán nổi. Nhưng bây giờ tôi đã biết những chuyện xảy ra sau đó, căn cứ vào những kết luận này, chuyện lão người Tây kia phải nhờ vả Giải Liên Hoàn làm chắc hẳn là có liên quan đến ngôi mộ thời Minh dưới đáy biển nọ.

Nói vậy thì, người đầu tiên biết đến sự tồn tại của ngôi mộ dưới đáy biển có thể chính là lão người Tây kia, rồi lão lại nói cho Giải Liên Hoàn biết chuyện.

Vậy thì sẽ xuất hiện một vòng luẩn quẩn không thể giải thích được, một vấn đề không thể tưởng tượng nổi: lão người Tây kia từ đâu mà lần ra được sự tồn tại của mộ cổ ở Phiêu Tử Lĩnh và ngôi mộ dưới đáy biển Tây Sa? Hai loại mộ huyệt hiếm thấy này, ngay cả ông nội tôi cũng chỉ nghe phong thanh, một gã ngoại bang như lão ta sao có thể thần thông quảng đại đến vậy?

Rồi tôi lại nghĩ đến lúc Giải Liên Hoàn chết, con xà mi đồng ngư vẫn nắm chặt trong tay. Đây là con xà mi đồng ngư đầu tiên xuất hiện, rõ ràng vật này là do gã chôm từ trong cổ mộ dưới đáy biển ra. Vậy có thể nói thế này hay không: lão người Tây bí ẩn nọ, điều lão ta muốn nhờ Giải Liên Hoàn làm, phải chăng chính là vào trong cổ mộ, mang con cá đồng này ra ngoài?

Nói cách khác, lão người Tây kia không những biết trước rằng dưới đáy biển có cổ mộ, mà thậm chí còn biết trong mộ cổ có cái gì ư? Thế thì cũng quá ăn khớp với nguyên tắc tình báo là số một của dân Mẽo rồi.

Nhưng mà làm thế nào?! Mẹ nó chứ làm thế *éo nào? Rốt cục bọn chúng thế *éo nào lại biết được những chuyện này cơ chứ?

Ngay cả chú Ba khi đến Phiêu Tử Lĩnh được ghi chép trong cuốn bút ký của ông tôi cũng phải nhờ vào việc hỏi han dân miền núi ở địa phương, mấy bận nhọc nhằn mới lần ra được vị trí chính xác. Cổ mộ dưới đáy biển Tây Sa thì lại càng khỏi phải nói. Tôi nghĩ ngoại trừ Uông Tàng Hải, không một ai có thể biết đến sự tồn tại của nó.

Nghĩ tới đây, tôi đột nhiên giật mình đánh thót, tự nhủ rằng không phải chứ! Người ta nói, vào lúc không thể đưa ra lời giải, vậy thì đáp án không có khả năng nhất lại là đáp án chính xác nhất.

Giả sử những chuyện này đây đều không có thực, nói vậy thì, đáp án chỉ có một: những lời kể vừa rồi của chú Ba, phải chăng chính là nói dối?

Người này từng có tiền án tiền sự. Tôi bỗng chốc chột dạ, lập tức nhìn chú, quan sát xem vẻ mặt của chú có gì bất ổn hay không.

Chú Ba thấy sắc mặt tôi lầm lầm lì lì thì không hiểu tôi nghĩ cái gì, thấy tôi cứ nhìn chằm chặp, bèn hỏi tôi bị làm sao đấy?

Tôi thử dò hỏi: "Chú Ba này, chú không được bịp tôi nữa đâu đấy. Đã nói đến nước này rồi, chú lại lòe tôi nữa thì thật sự là chả tốt đẹp gì cả."

Chú Ba thấy tôi tỏ vẻ như vậy thì lấy làm lạ, hỏi tôi tại sao lại nghĩ thế? Tôi vừa trình bày thắc mắc của mình ra một cái, chú nghe xong đột nhiên nhíu mày, cũng nhìn trả lại tôi.

Tôi thấy thế là xong, phải ứng này giống như là bị tôi vạch mặt, không biết nói gì nữa, trong lòng không khỏi nặng trĩu.

Ai dè chú nhìn tôi mấy cái xong, bỗng nhiên lại nói: "Mày nghĩ nhiều quá rồi, sự việc không phải như thế. Thật ra đám ngoại quốc đó lúc ấy vốn cũng chẳng biết dưới đáy Tây Sa rốt cuộc có thứ gì, bọn chúng chỉ biết, dưới biển nơi đó chắc chắn có thứ gì đó mà thôi."

Tôi hỏi lại: "Sao mà chú biết được?"

Chú Ba trả lời: "Cái này là chính miệng bọn chúng về sau kể cho chú đấy. Thật ra mấy thằng ngoại quốc đó, bây giờ chính là sếp sòng cái công ty gia đình của A Ninh đằng kia kìa. Mà kẻ lập ra cái công ty gia đình ấy, mày biết là ai không?"

Tôi lắc đầu, chú Ba bèn đáp: "Chính là kẻ lừa lấy cuốn sách lụa Chiến Quốc từ tay ông nội mày, tay người Mỹ nọ đấy."

Tôi nghe xong cằm suýt rớt đất, bèn hỏi lại: "Chính là lão ta?"

Chú Ba gật đầu, kể: "Trước lần đi Tây Sa đó, chú đã từng gặp tận mặt lão một lần. Khi ấy lão ta đã không xong rồi, bây giờ phải dựa vào máy móc mà duy trì mạng sống. Lúc đó chính miệng lão đã nói cho chú biết mục đích của việc đầu tư tài chính vào hoạt động ở Trung Quốc suốt mấy chục năm nay."

"Là gì vậy?" Tôi hỏi chú.

Chú Ba đáp: "Nguyên nhân gây ra toàn bộ sự việc, chính là cuốn sách lụa Chiến Quốc năm đó lão bịp bợm chôm được. Hồi ấy lão vẫn còn là giáo viên trung học ở Giáo Hội, thỉnh thoảng đánh quả buôn lậu đồ cổ. Năm xưa lão dùng danh nghĩa làm từ thiện, lừa được bản gốc cuốn sách lụa Chiến Quốc từ tay ông già. Bấy giờ lão này đã cực kỳ thông thạo văn hóa nước ta. Để nâng giá cuốn sách lụa này, lão quyết định giải mã thông tin ghi trên đó." Chú Ba ngừng lại một lát: "Nhưng mà bỏ ra hai năm, thứ giải mã ra được, lại khiến lão kinh hoàng."

Tim gan phèo phổi tôi nhảy vọt lên một cái, vội hỏi: "Lão người Mỹ này mà có thể giải mã được cuốn sách lụa Chiến Quốc mà nhà ta bao nhiêu năm vẫn không sao giải quyết được cơ á?"

Chú Ba gật gù: "Cũng vì lão là dân Mẽo, cho nên lão mới giải được. Bởi vì nguyên tắc tổ hợp mật mã trong sách lụa chỉ là dùng một loại quy tắc toán học. Người như chúng ta cho dù bác học đến mấy, cũng không có cách nào tiếp cận từ góc độ của toán học để giải mã thứ này."

"Thế trên cuốn sách lụa kia ghi cái gì vậy chú?" Tôi tò mò hỏi.

Chú Ba trả lời: "Thông tin ghi lại trên cuốn sách lụa kia, không nói ra thì mày nhất định không thể tưởng tượng được là cái--"

Chú Ba đang nói dở thì đột nhiên có người gõ cửa. Tôi lấy làm lạ, lẽ nào lại có người đến thăm bệnh, ai đến được thì đã đến hết rồi còn gì, đậu má nó chứ đứa nào vô duyên phá đám tôi nghe chuyện đấy. Tôi quay đầu lại nhìn, hóa ra là nhân viên chuyển phát nhanh.

Anh ta tiến vào, hỏi: "Ai là Ngô Tà ạ?"

Tôi gật đầu, đáp: "Tôi đây."

Anh ta bèn rút từ trong túi ra một gói hàng bọc kín, nói: "Bưu phẩm của anh đây."

Chú Ba cũng thấy rất lạ, sao tự nhiên lại có bưu kiện gửi đến. Chú hỏi tôi có biết người gửi à?

Tôi lật lật nhìn nhìn, thấy trên phong bì ghi: Trương Khởi Linh, lập tức âm thầm hoảng hốt. Tôi ngầm tự hỏi, tại sao hắn lại gửi bưu phẩm cho tôi. Nhìn đến ngày gửi thì thấy cách đây chưa lâu, không lẽ hắn đã chui ra từ khe nứt dưới đất nào rồi. Tôi vội vàng mở ra xem. Trong phong bì là hai món đồ màu đen - chính là hai cuộn băng ghi hình.

Chương 9. Băng ghi hình

Đương lúc tôi và chú Ba đang nói chuyện thì đột nhiên có người gõ cửa, ngay sau đó, một nhân viên chuyển phát nhanh bước vào hỏi thăm tôi.

Chuyện tôi ở chỗ này chỉ có người nhà và vài người bên A Ninh biết, cho nên tôi mới tưởng đó là người nhà gửi thuốc thang đường sữa đến, hoặc là tài liệu chuyển từ nước ngoài về, cũng không quá để tâm nên ký nhận liền. Đợi ký cọt xong, lúc nhìn kỹ tên người gửi tôi mới phát hiện ra rằng, người ký tên trên kiện hàng thế quái nào lại là Trương Khởi Linh!

Trong nháy mắt, tôi đần mặt ra một chốc, sau đó thì toàn thân lạnh toát.

Trong khoảng thời gian bám trụ tại nơi này, những chuyện xảy ra ở núi Trường Bạch tôi đã dần ném hết vào quên lãng. Có thể nói, ngoại trừ nỗi kinh hoàng, những ký ức khác cơ bản đều đã bị những lo toan vụn vặt che khuất hết. Thế nhưng, chỉ một cái tên ba chữ kia nhoáng cái đã kéo căng sợi dây cung vốn đang chùng xuống trong lòng tôi. Chẳng mấy chốc, những ký ức mới ghi nhận chưa lâu đã lập tức cuồn cuộn dâng trào trong đầu óc tôi như nước triều lên.

Tại sao hắn lại gửi đồ cho tôi? Chẳng phải hắn đã vào trong cánh cửa thanh đồng khổng lồ đó rồi sao? Không lẽ hắn đã quay ra rồi?......Thời gian gửi là từ lúc nào, trước hay sau khi hắn vào Vân Đỉnh? Tôi lập tức nhìn ngày ghi trên bưu kiện, vừa nhìn mí mắt liền giật nảy một cái: chính là bốn ngày trước!

Vậy tức là hắn ra thật rồi! Hắn đã ra khỏi cánh cửa khổng lồ kia thật!

Tay tôi bắt đầu run bắn lên. Trong đầu tôi lại hiện lên hình ảnh khi Muộn Du Bình bước vào trong cánh cửa thanh đồng khổng lồ, rồi lại nhìn nhìn gói bưu kiện trong tay mà ruột gan rối bời. Tôi tự hỏi đây sẽ là vật gì nhỉ? Lẽ nào lại là thứ hắn mang ra từ sau cánh cửa thanh đồng?

Là cái gì nhỉ? Đầu người, minh khí? Hay là Quỷ ấn?

Trong đầu tôi hiện lên không biết bao nhiêu là ý tưởng quái gở. Mãi lâu sau tôi mới chợt nhớ ra là mình nên mở luôn ra coi, bèn vội vàng lục lọi khắp nơi tìm kéo.

Chú Ba ngồi bên thấy sắc mặt tôi biến đổi xoành xoạch, không biết thứ tôi nhận được kia là gì, bèn tò mò châu đầu lại xem. Vừa nhìn thấy ba chữ Trương Khởi Linh kia, chú cũng há hốc mồm hít ngược khí lạnh, vẻ mặt khiếp sợ vô cùng.

Hai chú cháu luống cuống tay chân lục lọi cả buổi, cuối cùng chú Ba tìm được một con dao gọt hoa quả đưa cho tôi, tôi mới cắt mở được cái hộp gói bên ngoài kiện hàng.

Trong hộp là một gói đồ. Bưu kiện hình hộp, bên ngoài còn dùng băng keo quấn mấy vòng hình chữ thập cực kỳ cẩn thận, khó xé vô cùng. Tôi phải vận sức chín trâu hai hổ mới xé ra được một lỗ hổng, bên trong lộ ra hai vật màu đen. Nhịp tim của tôi đột nhiên tăng vọt, phải dừng một lúc, hít thật sâu rồi xé toạc một cái thật mạnh. Hai vật màu đen đã bị tôi rút ra ngoài.

Trong một tích tắc kia, tôi đã chuẩn bị sẵn tâm lý thật tốt để có thể nhìn thấy bất cứ thứ đáng sợ nào. Thế nhưng, thứ mà tôi trông thấy khiến tôi đần mặt ra - ấy thế mà đó lại chỉ là hai cuốn băng ghi hình kiểu cũ màu đen.

Mới ban nãy đầu óc tôi còn rối như mớ bòng bong, hầu như thứ gì cũng đều liệu trước hết cả rồi, nào ngờ, bên trong lại chỉ là hai cuốn băng ghi hình. Bởi vì cái gã Muộn Du Bình kia, nghĩ đến hắn thường dễ nghĩ đến thứ gì đó lột từ trong quan tài ra, chứ khó lòng mà liên tưởng hắn với loại thiết bị lỗi thời như cuốn băng ghi hình này lắm.

Bố khỉ, sao hắn lại phải gửi cái thứ này cho tôi? Nội dung bên trong là gì?

Tim tôi lại nhảy vọt lên phấp phỏm, một ý nghĩ lóe lên trong đầu: không phải là tình cảnh sau khi hắn vào sau cánh cửa thanh đồng đấy chứ? Lẽ nào hắn đã thu hình lại hết những thứ đằng sau cánh cửa vào cuốn băng ư?

Ôi đệt, nếu thế thì thật quá là... Có điều, nghĩ lại thì không thể nào được, lúc ấy tôi đâu có thấy hắn khiêng máy quay vào trong. Hơn nữa, tôi tin chắc phía sau cánh cửa thanh đồng kia cũng chẳng phải chỗ tốt lành gì, hẳn là không đến mức có thể thoải mái vác máy vào chụp ảnh quay phim làm kỷ niệm được đâu.

Vậy thì là gì? Ruột gan tôi tức thì cồn cào như có ngàn vạn con kiến đang bò, quả thật chỉ muốn bật băng lên xem ngay lập tức.

Có điều hai cuộn băng ghi hình này có kiểu dáng và dạng mã hóa dữ liệu đều là loại rất cũ, có thể nói là từ thời Napoleon cởi truồng rồi. Tôi biết băng này nhất định phải dùng đầu băng video kiểu cũ thì mới xem được, mà món này ngày nay khó kiếm lắm.

Chú Ba ra hiệu ý bảo tôi lật lại thử coi. Tôi bèn ném bao bì sang một bên, lấy hai cuộn băng ghi hình ra, trước tiên cẩn thận nhìn xem phía trên và bên cạnh cuốn băng có đánh dấu thông tin gì hay không.

Băng ghi hình với tôi cũng chẳng có gì xa lạ. Mười năm trước, hồi đầu đường còn mở đầy tiệm thuê băng, xem phim nước ngoài gần như là thú tiêu khiển duy nhất của tôi. Hồi đó một ngày nghỉ đảm bảo tôi phải xem cỡ năm cuốn là ít. Vì tiếp xúc nhiều nên tất nhiên tôi cũng có chút hiểu biết về kết cấu của thứ này, bình thường những cuốn băng hình tự thu thường sẽ có ghi gì đó trên sống băng, bằng không thì chịu chẳng phân biệt nổi.

Vừa nhìn tôi đã thấy lạ. Sống băng trước kia đúng là có dán nhãn, nhưng nó đã bị xé đi mất. Vết rách vẫn còn rất mới, chứng tỏ nó bị xé chưa lâu. Xem ra, có vẻ như Muộn Du Bình không muốn chúng tôi thấy cái nhãn băng dán bên trên này.

Thế là sao? Đã gửi đồ cho chúng tôi rồi, lại còn xé mất nhãn băng dán bên trên. Trên đó có ghi cái gì tôi không được biết chăng?

"Thế này là thế nào?" Lúc này chú Ba nhặt phong bì trên mặt đất lên, lắc lắc, xác định bên trong không còn gì nữa mới hỏi tôi: "Thằng cháu cả, mẹ kiếp trông mày thế mà bạc bẽo gớm. Sao mày không nói cho chú biết là mày còn liên lạc với hắn?"

Tôi lắc đầu ý nói tuyệt đối không có chuyện đó. Chú Ba vỗ vỗ cuốn băng, hỏi rằng vậy thế thứ này mày giải thích thế nào đây? Tôi bèn đáp: "Chú hỏi cháu, cháu biết hỏi ai."

Chú Ba thấy tôi không giống như đang nói dối, liền nhíu mày, chặc lưỡi nói: "Thằng nhãi này cũng thần thông quảng đại gớm, sao nó biết là mày ở đây nhỉ?"

Cả tôi cũng thấy lạ. Từ sau khi ra khỏi Vân Đỉnh Thiên Cung, chỗ ở của tôi chỉ có đám A Ninh và người trong gia đình là biết. Hắn không có tin tức của tôi, lại có thể gửi đồ cho tôi vào đúng địa chỉ này. Chuyện này thực ra rất khó, không có người thu thập tin tức cho hắn thì sao mà làm được. Xem ra, con nước đằng sau tên kín tiếng này quả thật là thâm sâu khó dò.

Chú Ba ngẫm nghĩ, rồi lại hỏi tôi xem trên hóa đơn có ghi bưu kiện này gửi từ đâu tới hay không? Tôi nhặt hóa đơn lên, xem xong liền lắc đầu. Trên hóa đơn chỉ ghi người gửi và ngày gửi, những thông tin khác đều bỏ trống. Không những không có địa chỉ người gửi, mà đến cả vùng miền nơi nó gửi đi cũng chẳng viết rõ ràng. Thật không hiểu cái bưu kiện này được gửi kiểu gì nữa.

Có điều nó được gửi từ bốn ngày trước. Ở đây bưu kiện nội tỉnh bình thường chỉ một ngày là đến, ngoại tỉnh gửi tương đối gần thì cũng chỉ cần cỡ hai hôm. Bưu kiện này gửi đã bốn ngày, nếu không phải chỗ gửi cách nơi này rất xa, thì phải là nơi tương đối hẻo lánh, giao thông không thuận lợi. Tôi có thể điều tra thêm trên hệ thống máy tính của công ty chuyển phát nhanh, nếu bọn họ có đăng ký trên mạng thì tra một cái là biết ngay thôi.

Nói rồi, tôi và chú Ba nhìn nhau một cái, rồi cùng cười khổ. Bỗng dưng có việc xảy ra chen ngang câu chuyện của chú, nhất thời tôi cũng không biết phải xử lý cuốn băng này như thế nào cho ổn. Chú Ba bèn nói: "Thằng cháu cả, bằng không chúng ta tạm nghỉ đã. Tiểu ca này hành động bí hiểm, hắn không vô duyên vô cớ gửi đồ đâu. Hai cuốn băng này có khả năng không phải chuyện nhỏ, chúng ta tìm đầu video trước xem bên trong quay lại cái gì đã, thế nào?"

Tôi nghe xong liền lắc đầu luôn, đáp vội nói rằng không được đâu. Tuy tôi cũng cực kỳ để tâm đến nội dung cuốn băng này, nhưng mấy thứ chú Ba kể lại cho tôi hãy còn chưa thấy đầu mối nào cụ thể. Giờ mà tạm thời dừng lại, chờ lát nữa tâm trạng chú thay đổi thì ai biết chú còn chịu kể nữa hay không. Vả lại đầu video đã ngừng sản xuất cả chục năm rồi, mà thời buổi này đến cả đầu VCD cũng đã bị đào thải, ra chợ đồ cũ cũng khó mà mua nữa là. Cuốn băng này không thể xem trong một sớm một chiều được.

Có điều, nếu bây giờ cứ xem như hai cuốn băng ghi này này không tồn tại thì cũng không được. Tôi bèn bảo, chúng ta cứ nói tiếp chuyện của chúng ta, chú bảo gã tay chân của chú kia ra phố hỏi xem trong thành phố này có chợ đồ cũ nào không, rồi đi xem một vòng, nếu có bán loại đầu máy video này thì mua lại, còn nếu không có thì để buổi tối tôi lên mạng tìm cách.

Chú Ba nghe xong thấy cũng có lý, bèn nói: "Cũng được, dù sao tiếp theo cũng sẽ nói đến chuyện của vị Tiểu ca này." Nói xong thì phất tay ra hiệu cho gã tay chân làm theo lời dặn.

Gã tay chân kia nghe chú Ba kể chuyện đương hay, giờ bị đuổi cổ thì có phần không cam tâm. Có điều, gã chỉ nguýt chú Ba một cái rồi cũng thôi.

Gã tay chân kia đi rồi, chú Ba liền vỗ vỗ mặt, nói: "Vậy chúng ta nói nhanh một chút. Ban nãy chú kể đến chỗ nào rồi nhỉ?"

Tôi đem chuyện đã được nghe lược lại rồi kể với chú một lần. Chú Ba liền gật gù: "Đúng, quan trọng là ở nội dung của cuộn sách lụa. Lão nước ngoài kia có quan hệ rất sâu xa với sách lụa Chiến quốc, vấn đề này còn phức tạp lắm, chú còn phải giảng giải từ đầu cho mày. Thằng cháu cả, mày làm ăn cũng không phải ngắn ngủi gì, loại sách lụa Chiến quốc này có hiểu biết ít nhiều gì không?"

Tôi bèn ngẫm nghĩ một lúc. Làm nhiều thì quen tay, tuy tôi không thích làm việc với bản rập cho lắm, vì lợi nhuận ít, hơn nữa đám người phải giao thiệp tiếp xúc lại hơi bị gàn dở nữa. Có điều, đã làm ăn nhiều năm rồi, đối với cái ngạch này kiến thức của tôi vẫn là tương đối sâu.

Loại sách lụa Chiến quốc này cũng không thể coi là phân loại chính trong ngạch hàng bản rập. Cứ nhìn tên thì biết, sách lụa Chiến quốc chính là sách lụa thời Chiến quốc. Thế nhưng trên thực tế, phạm vi của thời Chiến quốc này tương đối hẹp. Trong những giao dịch chính thức, vật phẩm thời Xuân Thu cũng được quy về trong mảng Chiến quốc hết. Trên thị trường, bản gốc của sách lụa Chiến Quốc còn rất ít, cực kỳ quý giá, và còn được phân ra thành nhiều loại khác nhau dựa vào địa điểm khai quật mộ, ví dụ như sách lụa nước Sở, sách lụa nước Ngụy, vân vân... Nội dung những mảnh sách lụa này cũng không giống nhau, trong đó quý nhất là sách lụa nước Lỗ. Những cuộn được công nhận là sách lụa nước Lỗ mà tôi biết, số lượng chỉ đếm trên mười đầu ngón tay, hơn nữa cũng không hoàn chỉnh. Tuy còn có những cuộn khác cũng tự mạo nhận là sách lụa nước Lỗ, nhưng thật giả khó phân, bình thường Nhà nước không công nhận.

Sách lụa nước Lỗ cũng không phải chỉ có một loại. Dựa theo kiểu chữ cùng độ lớn của bản rập, nó còn được chia ra làm mấy loại nhỏ, trong đó quý nhất là sách lụa vàng nước Lỗ. Nguyên nhân rất đơn giản: chính là vì văn tự ghi trên đó người ta xem không hiểu.

Ngữ pháp của văn tự ghi trên loại sách lụa này vô cùng cổ quái. Nhìn từng chữ thì hiểu được nghĩa, nhưng lại không làm sao đọc được cả câu. Chúng ta biết Trung Quốc có bát đại thiên thư - tám loại chữ cổ khó đọc là: chữ Thương Hiệt, chữ Hạ Vũ, Hồng Nham thiên thư, Dạ Lang thiên thư, ký hiệu Ba Thục, Khoa Đẩu văn, Đông Ba Công văn và bia Tân Lũ, tất cả đều là những bản văn tự đơn lẻ, không có cách nào để tiến hành giải mã. Thế nhưng văn tự trên sách lụa nước Lỗ thì lại giống như là mật mã. Giới khảo cổ nước ngoài gọi lụa vàng nước Lỗ này là "sách ma pháp Trung Hoa", vì nếu cứ đọc văn tự lên theo thứ tự thì nghe y như thần chú lên đồng ấy.

Có điều, loại mật mã này đã được giải vào năm 1974. Thứ này về sau được gọi là "Chiến quốc thư đồ", một dạng mật mã chuyển đổi giữa hình ảnh và ký tự thời cổ đại. Tôi đã từng được nghe nói đến khái niệm này ở chỗ chú Ba, sau đó tự tra cứu tư liệu. Đây là một phát hiện lớn, chỉ là, năm 1974 đã xảy ra một sự kiện khác quá lớn, cho nên sự kiện khảo cổ này không gây được tiếng vang gì cho lắm.

Hiện tại, trong các giao dịch về bản rập sách lụa Chiến quốc bình thường, loại sách lụa nước Lỗ này rất nổi tiếng, được nhiều người hỏi thăm. Một thời gian trước, nghe nói căn cứ vào nghiên cứu khảo cổ, loại sách lụa nước Lỗ này khả năng có đến 120 cuộn, cũng không biết số liệu ước đoán từ đâu, nhưng tôi biết rằng có khoảng từ bốn đến năm cuộn đang lưu hành trên thị trường. Những cuộn đó đều đã chính thức được các nhà giám định chuyện nghiệp thẩm định, không thể tìm thấy trên internet. Hơn nữa, những cuộn sách lụa này lại được người nước ngoài đặc biệt ưa chuộng, cho nên dân buôn có rất nhiều người mong vơ vét thứ này, hy vọng có thể kiếm được bản độc. Mà muốn tìm sách lụa nước Lỗ loại hiếm thì ắt phải đảo qua hết các tiệm bán bản rập, bởi vì chúng tôi thu mua bản rập hàng loạt chứ không phân loại, các loại lai lịch nào cũng có, bình thường toàn để chất chồng một đống ở đó, nếu chú ý, nói không chừng có thể mót được thứ gì bị bỏ sót. Những người này nếu tìm được thứ gì ngon cũng sẽ không khoe tướng lên, mà cầm về tự nghiên cứu, cho nên trên thị trường này, công việc làm ăn vẫn tương đối tốt.

Cuộn sách ông nội tôi trộm từ trong cổ mộ ra chính là sách lụa vàng nước Lỗ. Có điều, do nội tình từng có sự việc xảy ra, cho nên thứ này chúng tôi cũng không dám đem ra khoe khoang. Vả lại, trên giang hồ, ông tôi rất có tiếng tăm, không ít người đến dò hỏi chuyện này, thứ này coi như là bảo bối cất đáy hòm của tiệm nhà tôi.

Hiện giờ chúng tôi đã biết, loại sách lụa vàng nước Lỗ này, có lẽ chính là tạp ký thời Chiến quốc của Thiết Diện Sinh. Người này cũng giống như Da Vinci, dùng loại văn tự do bản thân mình chế ra để viết tạp ký, hết lòng theo chủ nghĩa thần bí. Khoảng thời gian sau khi ra khỏi Lỗ Vương Cung kia tôi cũng từng nghiên cứu thứ này. Nghe nói trong lịch sử loài người, hễ là người sử dụng mật văn để ghi chép, thì đều là do phát hiện ra được điều gì có thể phá vỡ thế giới quan của thời kỳ lúc đó, e sợ bị thế lực thống trị (ví dụ như là Giáo hội thời Da Vinci ấy) trừ khử, mới dùng đến biện pháp bất đắc dĩ như thế.

Về sách lụa, tôi chỉ biết có chừng đó, bèn cứ thế nói lại hết với chú Ba. Chú gật gù rồi đáp: "Ờ không sai, quả nhiên ngồi xổm lâu trong nhà xí, không ị được thì cũng có thể ngâm nga được." (:v :v :v) Nói rồi chú liền lôi cái ba lô rách nát từ dưới giường lên, lấy từ trong đó ra một tấm ảnh chụp nhăn nhúm. Tôi nhận lấy, phát hiện ra đó là một phần của mảnh sách lụa Chiến quốc được chụp lại trong tủ kính ở viện bảo tàng. Xem văn tự sắp xếp trên đó thì có lẽ đây chính là phần bản gốc mà ông tôi trộm được rồi về sau bị lão người Mỹ lừa lấy mất kia.

"Đây là thứ vốn phải thuộc về nhà chúng ta." Chú Ba bảo, "Hồi ông đây đi Mỹ ba năm trước đã tiện tay chụp lại ở Bảo tàng New York. Tất cả mọi chuyện đều phát sinh từ món đồ này đấy. Ngẫm lại thì đúng là cũng do số má cả. Nhà chúng ta đã bốn đời nay, cứ y như dính lời nguyền, đều bị cuốn đầu vào trong chuyện này. Đây cũng là nguyên nhân vì sao chú không muốn mày can dự vào, chú chỉ mong chuyện này có thể chấm dứt ở thế hệ của chú."

Bốn thế hệ. Đúng rồi nhỉ. Tôi bất chợt cảm khái trong chốc lát rồi hỏi: "Rốt cuộc nội dung viết trong cuốn sách là gì vậy?"

Chú Ba cười cười nói: "Ban nãy chú nói rồi đấy thôi. Nhưng thôi, không kể ra thì mày chắc chắn không thể tưởng tượng nổi đâu. Thực ra trên sách lụa không hề ghi lại điều gì cả, những thứ giải mã ra từ trong đó ra cũng không phải văn tự đâu, mà là một hình vẽ bí ẩn."

"Hình vẽ ư?" Tôi nhíu mày, lại nhớ tới phần sách lụa Chiến Quốc trong Thất tinh Lỗ Vương cung kia. "Không lẽ, đó cũng là một bức địa đồ cổ mộ sao?"

Chú Ba lắc đầu đáp: "Không phải địa đồ, còn phức tạp hơn địa đồ nhiều. Chuyện này một lời khó mà nói hết được. Trước khi đi Tây Sa, lão nước ngoài kia đã kể lại toàn bộ sự tình cho chú biết. Để chú thuật lại một lượt, mày nghe rồi tự khắc sẽ hiểu."

Chương 10. Cu Đc Kho

(Chuyện tiếp theo chú Ba kể rất rắc rối, dính líu đến nhiều vụ việc ở Trường Sa thuở trước. Có điều, tôi lại rất có hứng thú với những chuyện như thế này, bởi từ khi còn nhỏ tôi đã rất thích những câu chuyện xưa cũ thoáng tanh mùi đất này, rất có cảm giác nặng tính lịch sử, nghe một chút cũng chẳng hề gì.)

Gã giáo sĩ được nhắc tới trong lời kể của chú Ba là Hendrie Cox, tên tiếng Trung là Cầu Đức Khảo, làm việc tại một trường Công giáo ở Trường Sa, là một trong số những người Mỹ vào Trung Quốc theo phong trào Đông tiến thời kỳ Quốc Dân Đảng. Nhưng người này từ nhỏ lục căn không thanh tịnh, thầy chùa Tây phương không thích làm, lại đi thích văn hóa Trung Hoa. Có lẽ trong quan niệm kinh tế của dân Mỹ, cổ vật cũng chỉ là một loại hàng hóa, có thể tự do mua bán thì dĩ nhiên cũng đem xuất khẩu được. Bởi vậy nên ở Trung Quốc đến năm thứ ba, thỉnh thoảng lão lại lén lút đánh một quả buôn lậu cổ vật. Năm đó lão mới mười chín tuổi.

Những phi vụ buôn lậu của lão vẫn luôn được tiến hành cẩn thận, chứ không tham ăn dày đánh lớn. Ở thời điểm đó, buôn lậu có hai kiểu: một là bán chác với bên quân đội, tẩu tán được số lượng hàng nhiều nhưng giá trả rất thấp, chơi theo kiểu năm ăn năm thua, vô cùng mạo hiểm. Còn kiểu của Cầu Đức Khảo gọi là "buôn nguội", giá được trả cao, hàng có thể ít nhưng rất an toàn, làm vụ nào thắng vụ đó. Cách làm ăn của lão như vậy lại rất hợp khẩu vị ông tôi, cho nên hồi đó quan hệ giữa lão và ông tôi tốt lắm.

Nhưng cái tay Cầu Đức Khảo này lại không phải loại bạn bè đáng kết giao. Từ tận đáy lòng, lão chưa bao giờ xem ông tôi là bằng hữu, thậm chí còn chẳng buồn nhấc ông lên hàng bằng vai phải lứa. Về sau ông nội tôi mới biết, đằng sau lưng, lão lén gọi ông là đồ chấy rận.

Năm 1949, Trường Sa giải phóng. Quốc Dân Đảng hoàn toàn tan tác. Sau đó, năm 1952, Giáo hội bắt đầu rời khỏi Trung Quốc, nhiều người Mỹ từng sống ở Trung Quốc cũng bắt đầu hồi hương. Cầu Đức Khảo nhận được điện tín của Giáo hội, gọi lão trở về nhân lúc hãy còn an toàn.

Lão cảm thấy chuyện làm ăn ở Trung Quốc của mình sắp tới hồi xuống dốc, vì vậy bèn bắt đầu tiến hành những công tác chuẩn bị có liên quan hòng tẩu tán số tài sản của mình. Lúc trước khi đi, lão còn nảy ra một ý đồ nham hiểm. Lão và đồng bọn bắt đầu vung tay mua vét đồ minh khí, lợi dụng tâm lý tín nhiệm với quan hệ lâu năm của người Trung Quốc để thâu tóm một lượng lớn cổ vật chỉ bằng một số tiền đặt cọc rẻ bèo, trong đó có cuốn sách lụa Chiến quốc của ông tôi.

Năm đó ông tôi cũng không chịu bán món đồ mà cha chú mình phải đánh đổi tính mạng mới đem ra được này đâu. Chính là Cầu Đức Khảo đã nói láo rằng số tiền này sẽ được dùng để xây dựng các ngôi nhà từ thiện, ông tôi thấy đó là tích đức, mới miễn cưỡng ra tay. (Đương nhiên đó là ông nội tôi nói thế, chứ ai biết có thật hay không. Còn tôi thấy con người ông ít có khả năng đầy lòng từ bi kiểu đó lắm.)

Sau khi toàn bộ số hàng đã được chuyển lên tàu hết cả, Cầu Đức Khảo biết trong nhóm người này cũng có vài kẻ không dễ chọc vào, nên để tránh lưu lại hậu hoạ, khi đã ở trên tàu, lão liền gửi điện báo cho đơn vị kiểm soát thời đó, đem nhân thân của ông nội tôi và đại khái khoảng mười thổ phu tử khác tiết lộ hết cho quân Giải phóng đang đồn trú ở Trường Sa.

Đây chính là "Vụ án sách lụa Chiến quốc" cực kỳ nổi tiếng ngày đó. Nó không chỉ đơn giản là vụ án buôn lậu đồ cổ. Bởi Cầu Đức Khảo có quan hệ với tướng lĩnh Quốc Dân đảng trước Giải Phóng nên chuyện này còn liên lụy đến rất nhiều nhân tố đặc biệt của thời đại đó mà ngày nay khó có thể hình dung được, ví dụ như gián điệp, phản quốc v.v... Sự tình trở nên vô cùng phức tạp, suýt thì đánh động cả đến cả chính quyền trung ương. Ngày đó Cầu Đức Khảo hốt được một mẻ lớn, còn đám thổ phu tử đã ky cóp của cải cho lão xơi tái kia, người bị xử bắn, người phải ngồi tù, kêu gào thảm thiết.

Tuy cũng là đúng người đúng tội, thế nhưng cái chết như vậy, quả thật cũng có phần bi thảm quá mức. Sau này đến thời Kế hoạch Đại nhảy vọt và Cách mạng Văn hóa thì không còn những vụ buôn lậu đồ cổ ở Trung Quốc nữa, âu cũng là có liên quan tới cái chết của đám người ngày ấy.

Hồi đó ông nội tôi nhanh trí, thấy tình hình bất ổn bèn cả đêm chạy trốn lên núi, ẩn nấp trong một tòa cổ mộ. Sau hai tuần lễ ngủ chung với xác chết, ông mới tránh được tai bay vạ gió, sau đó hai bàn tay trắng chạy đến Hàng Châu. Chuyện này đối với ông nội tôi là một đòn đả kích cực lớn, cho nên về sau sách lụa Chiến quốc đối với ông cũng là chuyện cấm kị số một. Thuở sinh tiền, ông vẫn một mực dặn dò chúng tôi không được nói lung tung về chuyện này, cho nên người nhà chúng tôi vẫn kín tiếng như bưng.

Cầu Đức Khảo sau khi trở về Mỹ liền bán đấu giá những cổ vật kia rồi phát tài to. Cuốn sách lụa Chiến Quốc được bán về tay viện bảo tàng Metropolitan ở New York với giá rất hời, trở thành món cổ vật được trả giá cao nhất trong các buổi đấu giá thời ấy. Còn Cầu Đức Khảo một bước trở thành triệu phú, gia nhập vào hàng ngũ trưởng giả mới của xã hội thượng lưu. Chuyện ở Trung Quốc của lão được viết thành hồi ký, lưu hành rộng rãi.

Sau khi phát tài, Cầu Đức Khảo dần dần chuyển sang hứng thú với việc xã giao. Vào khoảng năm 1957, lão được mời đảm nhiệm chức cố vấn mảng nghệ thuật Viễn Đông của bảo tàng Metropolitan New York, làm cố vấn cho công tác nghiên cứu sách lụa Chiến quốc. Giám đốc Viện Bảo tàng này khi đó là Allen(*) tiếng xấu vang dội. Cả hai đều am hiểu về Trung Quốc, đều dựa vào việc thuê thổ phỉ đào trộm cổ vật ở Trung Quốc mà phất lên, nên trở thành bè bạn rất nhanh. Cầu Đức Khảo còn tài trợ một khoản tiền lớn cho viện bảo tàng, làm quỹ dùng để thu mua cổ vật Trung Quốc trôi nổi trong dân gian.

(*) Thc ra giám đc bo tàng Metropolitan New York trong thi kỳ này là James J. Rorimer, và ch liên quan gì đến trm m đt Tàu đâu =))

Đại khái là vì giàu lên rồi, sống an nhàn quá, cộng thêm sự nhiệt tình yêu thích đối với văn hóa Trung Hoa, sau này Cầu Đức Khảo tu thân dưỡng tính, dần dần chìm đắm trong những nghiên cứu về văn hóa Trung Quốc. Lão làm chủ nhiệm một số hạng mục nghiên cứu lớn của bảo tàng Metropolitan, kết quả cũng khá có tiếng tăm. Thế nhưng chuyện khiến lão chính thức được lưu tên trong sử sách, thì lại chính là vụ việc năm 1974, khi lão giải được mật văn trong cuốn sách lụa Chiến Quốc.

Ngày ấy nghiên cứu của lão về sách lụa Chiến Quốc đã dằng dai kéo suốt hai mươi năm. Lúc đầu lão làm thế chỉ để nâng giá cuốn sách lên thôi, nhưng sau này thì hoàn toàn là do có hứng thú với nó.

Lúc mới bắt đầu, chẳng có bất kỳ một ai cho rằng một người Mỹ như lão lại có thể giải được mật mã Trung Hoa cổ đại cả. Thế nhưng Cầu Đức Khảo lại làm được chuyện ấy bằng một nghị lực phi thường.

Nhắc tới thì cũng thật trùng hợp. Nhờ linh cảm từ một bản "tú phổ"(**) của Trung Quốc mà lão đã phát hiện được ra cách giải mã "Chiến quốc thư đồ". Cách giải mã này thật ra là giống với cách thức sử dụng con chữ để ghi lại trình tự các mũi thêu trong tú phổ. Dùng toán học móc nối các điểm thành hình vẽ, nói phức tạp thì cũng không hẳn, nó hoàn toàn chỉ là một sự khôn khéo. Nếu anh có thể nghĩ đến nó thì sẽ giải được ra, còn nếu không mảy may nghĩ tới thì dù có tinh thông mật mã học Trung Quốc cổ đại đến mấy cũng chỉ vô dụng.

(**) Tú phổ là sơ đồ mũi thêu bằng ký tự. Nếu mà bạn có học đan móc, thì nó cũng giống như chart chữ trong móc len sợi ý =")))

Phát hiện ra cách giải mật mã rồi, Cầu Đức Khảo vô cùng mừng rỡ, lập tức triệu tập nhân sự, tiến hành biên dịch lại phần sách lụa Chiến Quốc của ông tôi một cách rất qui mô. Sau một tháng thì cả bản mật mã đã được phá giải.

Thế nhưng, vượt ra khỏi dự đoán của Cầu Đức Khảo chính là, lúc bấy giờ, thứ xuất hiện trên tờ giấy ghi kết quả giải mã không phải là cổ văn về bói toán hay phép làm lịch thời Chiến Quốc như lão dự đoán, mà là một hình vẽ cổ quái, hoàn toàn không có ý nghĩa gì cả.

Hình vẽ này cổ quái như thế nào là điều thật sự rất khó hình dung. Sau khi tôi nhìn hình vẽ chú Ba phác lại cho mình cũng lần không ra nổi đầu mối. Nếu dùng lời lẽ miêu tả thử, thì chỉ có thể nói là hình vẽ này hết sức đơn giản, chỉ được tạo thành bởi sáu đường cong ngoằn ngoèo và một đường tròn ngẫu nhiên. Những đường cong này cùng trải rộng ra, có phần giống dòng chảy của sông trên bản đồ, hoặc thân dây leo bò lan gì đó, nhưng khi nhìn chúng vây quanh đường tròn kia thì lại cảm thấy là không phải. Cầm lên để ra xa một chút mà nhìn thì trông như một ký tự trừu tượng; nhìn gần, thì lại hoàn toàn chẳng hiểu nó là cái gì.

Ngoài nó ra thì không hề có bất cứ một thông tin nào khác. Nếu anh không bảo rằng hình vẽ này được lấy ra từ một cuộn sách cổ Trung Quốc tàn tạ thì chắc chắn mọi người đều sẽ tưởng đây là những đường cong do đứa trẻ mới biết cầm bút vạch bừa trên giấy.

Phải trải qua muôn vàn khó khăn mới giải mã được, ấy thế mà kết quả lại chỉ là một hình vẽ không thể hiểu nổi, Cầu Đức Khảo cảm thấy kinh ngạc vô cùng. Lão còn từng cho rằng cách giải mã của mình sai rồi, nhưng sau nhiều lần thử nghiệm, lão phát hiện điều đó là không có khả năng. Nếu làm sai thì sẽ không thể nào đem những ký tự này chuyển đổi thành hình vẽ một cách liền mạch không chỗ sơ hở như thế này được. Rõ ràng thứ được ghi lại bằng mật văn chính là bảy nét vẽ kia.

Bảy nét vẽ đó biểu thị cho cái gì? Vì sao chủ nhân cuốn sách lụa lại phải đem nó giấu trong mớ văn tự này?

Dựa vào kinh nghiệm từ bao nhiêu năm nằm vùng ở Trung Quốc, trực giác mách bảo với lão rằng, có thể được người ta mã hóa thành mật văn rồi ghi lại trên loại tơ lụa vô cùng đắt giá nhường kia thì không thể là một hình vẽ bình thường được. Những đường cong này chắc chắn phải có ý nghĩa đặc biệt gì đó. Nói không chừng là chuyện nghiêm trọng chứ chả chơi.

Lão liền sinh lòng hứng thú say mê đối với chuyện này, lập tức bắt đầu tìm đọc các loại tài liệu. Lão bỏ ra một khoảng thời gian rất lớn để đảo qua vô số thư viện, đồng thời cũng cầm bức hình này đến các trường đại học để thỉnh giáo những nhà Hán học người Hoa kiều đương thời. Thế nhưng, đám người sống tại Mỹ kia trình độ có hạn, cù cưa hơn nửa năm vẫn chẳng có bất cứ kết quả nào. Cho dù có người đoán mò, thì cũng chẳng ra đầu cua tai nheo chi sất, hoàn toàn vô căn cứ, nghe một cái là biết ngay họ chỉ nói quàng nói xiên.

Ngay khi hứng thú của lão dần tụt giảm, bắt đầu cảm thấy không nơi bấu víu, thì có một người bạn cùng học đại học đã chỉ cho lão một con đường sáng. Y nói với Cầu Đức Khảo, rằng món đồ Trung Hoa kỳ dị thế này thì có lẽ nên tìm đến những người già cả ở Chinatown mà hỏi. Năm ấy đang vào thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Chinatown có không ít những học giả cao tuổi đến từ Đài Loan, là một nơi ngọa hổ tàng long, biết đâu tìm được manh mối.

Cừu Đức Khảo nghe xong thấy cũng có lý. Lão bèn ôm hy vọng cuối cùng, tìm đến Chinatown thỉnh giáo.

Chinatown có một loại thư quán dành cho những người già cả tụ tập. Cầu Đức Khảo chỉ chuyên tìm đến những nơi này, giở hình vẽ ra xem xét. Cũng may là lão tốt số nên quả nhiên đã gặp được một cao nhân.

Vị cao nhân này là một ông lão gầy đét, là nhân vật có tiếng trong vùng đó. Hôm ấy ông ta đến quán trà nghe kể chuyện, đúng lúc đụng phải Cầu Đức Khảo vào đến nơi, đang trải bức vẽ trải ra xem xét. Mới vừa nhìn thấy, ông ta liền kinh hãi, lập tức hỏi Cầu Đức Khảo kiếm được nó ở đâu.

Cầu Đức Khảo thấy có cửa thì không khỏi mừng húm. Tất nhiên lão đã thủ sẵn một bộ lý do lý trấu để thoái thác không kể rành mạch ngọn nguồn với cụ già nọ, rồi vội vàng hỏi ông cụ phải chăng đã biết được điều gì.

Cụ già lắc đầu nói không đâu, có điều, cụ lại bảo với Cầu Đức Khảo rằng, mặc dù không biết lai lịch bức vẽ nọ, nhưng cụ đã từng thấy thứ tương tự ở một nơi.

Cầu Đức Khảo nghe xong, trong lòng nhấp nhổm. Lão vội hỏi xem ông cụ đã thấy thứ đó ở chỗ nào.

Ông cụ bèn đáp rằng, đó là hồi cụ còn ở đại lục, trong một đạo quán ở Kỳ Mông Sơn, cụ đã từng thấy một cái lò luyện đan. Hình vẽ nọ chính là được khắc trên cái lò luyện đan đó.

Chương 11. Lò luyn đan bng đng thau

Suốt đó giờ, về hình vẽ bí ẩn này, tra thế nào cũng không ra được một chút manh mối. Giờ vừa nghe nói như vậy, Cầu Đức Khảo liền phấn chấn hẳn lên, lão lập tức gọi một ấm trà ngon, cung kính đưa lên mời vị học giả già kia kể rõ ngọn nguồn.

Vị học giả già kia vốn cũng không bận rộn gì, thấy lão có hứng thú đến vậy thì cũng hào hứng lây, liền kể cho Cầu Đức Khảo nghe sự việc mình đã trải qua ngày ấy.

Đó là chuyện từ ba mươi năm trước. Thời đó, ông cụ này còn làm giáo sư giảng dạy ở khoa Văn hóa Trung Hoa tại trường Đại học Bắc Kinh, là một Đảng viên Quốc Dân Đảng, còn con rể là một lữ đoàn trưởng[] dưới trướng Trương Linh Phủ. Sau khi sư đoàn chỉnh biên số 74[] bị tiêu diệt, tàn quân Quốc Dân Đảng tan đàn xẻ nghé, con rể ông liền dẫn tàn quân chạy vào núi Kỳ Mông[] làm thổ phỉ, lẩn trốn trong núi suốt ba năm. Về sau, quân Giải Phóng tổ chức một cuộc càn quét với quy mô lớn, con rể ông bị bức đến đường cùng, phải móc nối với đặc vụ của Quốc Dân Đảng, định trốn sang Mỹ.

[1] L đoàn là mt đơn v biên chế trong quân đi, ngang cp trung đoàn nhưng thường đông hơn. L đoàn là đơn v binh chng hn hp gm c b binh, pháo binh, tăng thiết giáp, lính dù, đc công, công binh, quân y v.v... khi ra chiến trường có th là mt đơn v tác chiến đc lp.

[2] Sư 74 là mt sư đoàn tinh nhu đã được M chnh đn và trang b vũ khí cơ gii, là mt trong năm đi quân ch lc ln ca Tưởng Gii Thch, vào tháng 5 năm 1947 đã b quân Gii Phóng bao vây tiêu dit khu gii phóng Sơn Đông. Sư trưởng ca sư đoàn này, Trương Linh Ph - tướng yêu ca Tưởng Gii Thch, cũng tng là sinh viên ca Đi hc Bc Kinh.

[3] Núi Kỳ Mông - mình tra không thy ngn núi này nhưng có mt ch gi là Mông Sơn nm huyn Mông Âm, tnh Sơn Đông, có v phù hp vi miêu t ca tác gi.

Mua được một lối thoát rồi, người con rể liền đón ông cụ và gia đình vào trong núi chờ tin thuyền. Vì sợ tin đồn lan nhanh, mang gia quyến theo bên mình không tiện, cho nên trong khoảng thời gian này, người con rể đã thu xếp cho bọn họ ở trong một Đạo quán, giả trang thành đạo sĩ, chờ bên đặc vụ tiếp ứng.

Tuy mang danh Đạo quán nhưng thật ra đó chỉ là ngôi miếu dân gian thờ thổ địa của người địa phương mà thôi. Duy có một điều không giống với những ngôi miếu địa phương ở vùng núi khác, đó là tòa Đạo quán này được xây giữa hai vách núi cách nhau không đến năm mươi mét, mặt dưới lơ lửng giữa tầng không, vô cùng kỳ lạ. Cả tòa Đạo quán giống như một cái cầu thang khổng lồ, từng bậc từng bậc một, tổng cộng có bảy tầng. Bốn vách đều là tường đất phết sơn vàng, cực kỳ đơn sơ. Bốn tầng trên cùng chính là hai tấm ván gỗ gác giữa hai vách núi, ngay đến lan can cũng chẳng có. Trong mấy điện thờ đều đặt tượng Tam Thanh nặn bằng đất, cũng có tượng Quan Âm và thổ địa, rất đậm nét đặc sắc của văn hóa Trung Hoa.

Toàn bộ ngôi miếu Đạo quán chỉ do hai vị đạo sĩ già nua chăm nom, người cao tuổi là cha của người ít tuổi hơn. Năm đó đang thời chiến tranh loạn lạc, khói nhang thưa thớt, con rể ông bèn đưa bọn họ ít tiền, nhờ họ che chở giúp.

Thế là người giáo sư già liền sống trong Đạo quán suốt hai tháng trời. Nơi này nằm tít trong núi sâu, leo lên leo xuống bất tiện, cho nên ông chẳng có việc gì để làm, bèn bắt tay vào nghiên cứu những món đồ cổ bên trong Đạo quán. Chính vào lúc đó ông đã phát hiện ra một thứ rất kỳ quái. Trong Đạo quán này có rất nhiều đồ vật, đều là những sản phẩm địa phương thô sơ được sản xuất hàng loạt, chẳng có giá trị gì, tuy thỉnh thoảng có tòi ra vài món đồ cổ nhưng cùng lắm chỉ là đồ thời Minh. Ấy vậy mà, trên tầng cao nhất của Đạo quán lại có một cái lò luyện đan bằng đồng thau, hình dạng vô cùng kỳ lạ, trông như một búp sen bị lật úp, niên đại lại càng cổ xưa, hoàn toàn khác với những món đồ còn lại ở đây.

Vị giáo sư tuy không theo chuyên ngành lịch sử, nhưng những lão phu tử thời đó đều phải từng trải, từng tiếp xúc với những vấn đề như thế này không hề ít. Ông cảm thấy rất hứng thú, bèn hỏi vị đạo sĩ già xem lò luyện đan này đến từ đâu.

Vị đạo sĩ già kia liền khen ông có ánh mắt tinh đời. Lò luyện đan này quả đúng là không phải vật bình thường, mà là trong một trận địa chấn hồi trước Giải phóng, núi bị lở ra mới bắt gặp được đấy. Hồi ấy, cùng với nó còn có biết bao nhiêu là xương người chết cũng bị lở ra nữa. Người dân trong thôn thấy vậy mà sợ hãi, bèn khiêng cái lò luyện đan này lên đây để thần linh trấn yểm. Chuyện xảy ra đã sáu mươi năm rồi, hồi ấy ông vẫn còn nhỏ, tình hình cụ thể thế nào cũng không được rõ lắm.

Vị giáo sư nghe xong lại càng thêm hứng thú, song khi đó đang chiến tranh loạn lạc, thân phận của ông lại đặc biệt nên cũng chẳng có cách nào điều tra thêm được nữa. Ông ở trong Đạo quán nghiên cứu nghiền ngẫm trong một khoảng thời gian, nhưng vẫn không có kết quả gì. Có điều cảnh ngộ và điều kiện lúc đó khiến cho ông khắc ghi như in những ký ức về sự kiện này. Hình dáng và hoa văn của chiếc lò luyện đan kia ông cũng nhớ cực kỳ rõ ràng, cho nên vừa thấy Cầu Đức Khảo đưa cho mình xem là ông đã nhận ra ngay.

Ông cụ nói với Cầu Đức Khảo rằng, hoa văn này là ở cái nắp đậy phía trên lò luyện đan, giống hình vẽ nọ như đúc, không thể nhớ nhầm được. Nếu muốn biết nhiều hơn nữa thì có thể nghĩ cách đến Đạo quán kia tìm hiểu một phen. Chỉ có điều, bao năm trôi qua, vật đổi sao dời, hiện giờ chốn kia đã còn hay mất, còn phải trông vào duyên số của lão.

Cầu Đức Khảo sau khi nghe xong, vừa hưng phấn cũng lại vừa thất vọng. Hưng phấn vì rõ ràng những bí mật ẩn sau hình vẽ này còn phong phú hơn mình tưởng; còn thất vọng là vì nghe xong những lời kể kia, lão vẫn hoàn toàn không biết gì về hình vẽ này như trước.

Lão rất muốn được xem tận mắt cái lò luyện đan bằng đồng thau mà vị giáo sư già đã nhắc đến, nhưng chuyện này vào ngày đó gần như không có cách nào thực hiện nổi. Thời buổi ấy một người Mỹ muốn vào Trung Quốc đã là tương đối khó khăn rồi, chưa kể lão lại còn đeo trên người cái tiếng xấu là con buôn di vật văn hóa.

Song, cái lão Cầu Đức Khảo này một kẻ vô cùng tự phụ. Lão đã muốn làm chuyện gì thì đừng hòng có ai ngăn được. Lão vẫn nghĩ ra một biện pháp: bản thân lão không thể đến Trung Quốc, nhưng do hoạt động buôn bán cổ vật đã nhiều năm nên vẫn có một mạng lưới các mối quan hệ dày đặc ở đó. Lão bắt đầu tìm cách liên hệ với những mối cũ ở Trung Quốc, tìm người đến núi Kỳ Mông, vào tòa Đạo quán trong núi sâu kia xem xét để nắm bắt tình hình, mà tốt nhất là có thể trộm lấy cái lò luyện đan kia ra, vận chuyển sang Mỹ.

Lúc ấy là thời điểm Trung Quốc vừa phải trải qua mười năm tai vạ, ngổn ngang trăm thứ dở dang còn chưa được chỉnh đốn, những quan hệ cũ của lão đã không còn sót lại một mối nào. Trong cuộc thanh trừng sau Giải phóng, đám thổ phu tử thế hệ trước người thì chết, người chạy tháo thân. Toàn bộ mảng buôn lậu đồ cổ đều bị quét sạch nhẵn như chùi. Lão nhờ cậy cả quan hệ của mình trong Quốc Dân Đảng, chạy vạy gần hết các cửa mà vẫn không tìm nổi một người quen.

Trăm mối không lần được một, lão chỉ có thể liều mình mạo hiểm xin trợ giúp từ mấy tên tội phạm buôn lậu mà lúc bấy giờ lão không biết rõ, nhờ bọn họ giới thiệu cho vài nhân vật mới đang hành nghề ở Trường Sa.

Chuyến này lận đận đến những mấy lần, có điều, bỏ công mài sắt rồi cũng có ngày nên kim, mãi rồi lão cũng liên lạc được với một người Trung Quốc bằng lòng hợp tác với lão.

Người này, chính là Giải Liên Hoàn.

Giải Liên Hoàn làm thế nào mà bước chân vào cái nghề này, ngày ấy chú Ba nghĩ đến xoắn cả não vẫn không ra. Vì với hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ thì ngay đến ông cụ nhà họ Giải cũng còn chẳng dám đặt chân về nghề cũ, chỉ có thể sống bằng tiền dành dụm. Thời đó buôn lậu văn vật là tội nặng lắm, tương đương với tội buôn lậu thuốc phiện ngày nay, là chuyện đem tính mạng ra mà đùa với lửa, bình thường không phải cần gấp đồng tiền cứu mạng thì chẳng ai dám dính vào cái trò này.

Mà Giải Liên Hoàn ngày ấy lại là một công tử quần là áo lượt, là con nhà gia thế chính tông. Cụ ông nhà họ Giải có ý tẩy rửa nguồn gốc, từ nhỏ đã không cho hắn tiếp xúc với việc làm ăn trong nhà, cũng không cho hắn học này học kia, cho nên dù xét về đảm lược, tầm nhìn, kinh nghiệm hay những điều kiện khách quan khác, hắn đều khó có khả năng bước chân được vào cái nghề này, lại càng chẳng có lý do gì để dây dưa được với trùm buôn lậu người nước ngoài.

Nói nôm na một chút, muốn làm cái nghề buôn lậu văn vật này thì phải có bản lĩnh trong tay. Lấy hàng, giám định, ra giá, những kỹ thuật này không có hai, ba mươi năm tích lũy trui rèn thì sẽ chẳng luyện ra được cái kết quả gì sất. Mà nếu không có những khả năng này thì cho dù anh chủ tâm muốn bước vào nghề, cũng sẽ không có cách nào tìm được cửa. Người mua sẽ không thèm để ý đến anh đâu. Cho nên, nếu Cầu Đức Khảo có thể qua người trung gian tìm được Giải Liên Hoàn, thì chứng tỏ Giải Liên Hoàn đã thường cùng những người này lui tới làm ăn, hơn nữa lại còn được đối phương tín nhiệm. Chuyện này suy xét từ bản lãnh của Giải Liên Hoàn thì thấy thế nào cũng rất không khả thi.

Vấn đề này vẫn quấy nhiễu đầu óc chú Ba mãi cho đến tận khi chuyến đi đầu tiên đến Tây Sa trở về. Chú bắt đầu điều tra chuyện này, hỏi người đứng đầu Giải gia thì mới biết được một chút chân tướng sự việc. Có điều vấn đề này không liên quan đến vụ Cầu Đức Khảo nên cũng không cần nhắc tới ở đây.

Sau khi Giải Liên Hoàn và Cầu Đức Khảo móc nối được với nhau, Cầu Đức Khảo liền đem kế hoạch của mình gửi cho Giải Liên Hoàn. Đó là một tập tài liệu chi tiết, đính kèm bản phác họa chiếc lò luyện đan bằng đồng thau do cụ già kia vẽ, cùng một cái máy ảnh hiện đại. Lão bảo Giải Liên Hoàn trước tiên nhất định phải xác minh xem tòa Đạo quán kia còn tồn tại không - vào khoảng thời gian đó, đền thờ miếu mạo di tích là những thứ thuộc về "Tứ cựu"(*), có khả năng đã bị đốt bỏ mất rồi - sau đó là thu thập tin tức về chiếc lò luyện đan này, chụp ảnh gửi lại về Mỹ để xác nhận. Nếu như tất cả đều thuận lợi, vậy thì lại tìm cơ hội đem món đồ này tuồn lậu ra nước ngoài.
(*) Là bn th phi tiêu dit theo khu hiu ca Cách mang Văn hóa, gm: phong tc cũ, văn hóa cũ, thói quen cũ, tư tưởng cũ.

Giải Liên Hoàn tuy không thông thạo chuyện "xuống đất", nhưng chỉ là đến một chỗ, nhìn xem đồ có ở đấy không, hỏi thăm dăm câu ba điều thì hắn vẫn làm được. Sau khi cầm tài liệu đi Sơn Đông, hắn căn cứ vào hồi ức của ông cụ ghi trong tài liệu mà tìm ra tòa Đạo quán cổ được xây trong núi này.

Phúc bảy mươi đời là tòa Đạo quán cực kỳ vắng vẻ lại ở nơi hẻo lánh nên không gặp phải rắc rối lớn nào, qua mười năm phong ba bão táp vẫn được bảo tồn như một kỳ tích. Có điều vị đạo sĩ già đã qua đời, chỉ còn lại người con trai, cũng đã gần đất xa trời rồi. Giải Liên Hoàn chụp lại tòa Đạo quán cùng chiếc lò luyện đan bằng đồng thau kia, gửi sang bên Mỹ. Cầu Đức Khảo giở hình vẽ đã giải mã được ra so thì quả nhiên ông cụ kia nói không sai, đồ hình trên nắp lò luyện đan bằng đồng thau và trên cuốn sách lụa giống nhau như đúc. Chẳng qua là lai lịch của chiếc lò luyện đan này, vì niên đại quá cổ xưa nên con trai của vị đạo sĩ già cũng chỉ có thể kể đại khái, nội dung so với những gì ông giáo sư già cung cấp cũng chẳng hơn được là bao, nên không tìm thêm được manh mối nào nữa.

Dù rằng như thế, Cầu Đức Khảo cũng đã quá đỗi vui mừng. Lão chỉ thị cho Giải Liên Hoàn bắt đầu chuẩn bị, tìm biện pháp giấu giếm tuồn lò luyện đan ra khỏi biên giới.

Thế nhưng, khi vừa bắt tay chuẩn bị thì Giải Liên Hòa liền phát hiện ra đây là một nhiệm vụ bất khả thi.

Điều Cầu Đức Khảo đã không lường được là: chiếc lò luyện đan này lớn hơn rất nhiều so với tính toán trước đây của lão. Thời thế đã đổi thay, một vật như vậy ở Trung Quốc thời buổi ấy không thể qua mặt hải quan mà vận chuyển ra khỏi biên giới được. Mà nếu dùng thuyền buôn lậu thì tất phải đi qua vùng Chiết Giang hoặc Quảng Đông trước, cũng rất mạo hiểm. Thời ấy, vùng duyên hải phía Đông Nam loạn lạc đến thế nào, người bình thường không thể nào tưởng tượng được đâu.

Bọn họ thử bao nhiêu cách cũng không có kết quả, ngược lại còn khiến cớm đánh hơi thấy mùi. Rơi vào bước đường cùng, Cầu Đức Khảo lại nảy ra một ý đồ rồ dại: lão bảo Giải Liên Hoàn đập vỡ cả cái lò luyện đan ra, cưa thành hơn bốn mươi mảnh, sau đó đánh số ở bên trên, trà trộn trong hàng tơ lụa bấy giờ được phép xuất khẩu mà tuồn ra ngoài.

Chuyện này đối với giới khảo cổ mà nói thì đúng là hành vi man rợ khiến người ta giận ứa gan. Nhưng Cầu Đức Khảo hoàn toàn không quan tâm, vì món đồ này có giá trị như thế nào, đối với lão mà nói đã không còn ý nghĩa. Cái lão muốn là thông tin ở trên đó kia.

Đây cũng có thể nói là một sự trùng hợp hiếm có. Giải Liên Hoàn trong lúc cưa lò luyện đan ra đã phát hiện thấy dưới đáy chiếc lò này còn có một cơ quan vô cùng xảo diệu. Chính là dựa vào cơ quan này mà bí mật của hình vẽ thần bí trên cuốn sách lụa thời Chiến Quốc rốt cuộc mới được đưa ra ánh sáng.

Chương 12. Bn đ sao

Vừa nói, chú Ba vừa móc hai tấm ảnh chụp nhàu nhĩ từ trong cái ba lô rách nát ra đưa cho tôi.

Tôi biết thứ được chụp trong ảnh chính là chiếc lò luyện đan kia. Mấy tấm ảnh đó hẳn là do lão Tây kia đưa cho chú. Chuyện này tương đối phức tạp, không có mấy tấm ảnh này thì chỉ sợ không thể nào nói cho rõ ràng được, giờ chú cũng đã lấy ra cho tôi xem rồi.

Nhận lấy ảnh, vừa nhìn thêm lần nữa, tôi liền thấy tấm ảnh đầu tiên chính là hình một cái lò luyện đan to khủng bố được trưng bày trong bảo tàng. Lúc chú Ba kể chuyện, tôi còn không ngờ thứ này lại lớn đến vậy, phải cao những ngang tầm một người lớn. Muốn tuồn cái món này ra nước ngoài, ấy lại chả quá bằng nhiệm vụ bất khả thi.

Tấm thứ hai chụp cảnh dưới đáy lò luyện đan. Tôi thấy đáy lò chằng chịt hoa văn thanh đồng, chính giữa đáy lò còn đúc một con thú vọng thiên bằng đồng to bằng cả nắm tay, ngửa đầu trông trời, cực kỳ oai vệ, dựa vào tạo hình mà nói thì nó phải thuộc loại hàng thượng hạng của thượng hạng.

"Đây là lò luyện đan sau khi được phục chế lại trong viện bảo tàng. Tấm thứ hai chụp bên trong lò luyện đan." Chú Ba giải thích cho tôi. "Giải Liên Hoàn phát hiện ra cơ quan dưới đáy lò là một hệ thống cấp nước vô cùng tài tình, dùng để chế thêm nước vào trong lò trong lúc luyện đan. Vách lò rỗng ruột, bên trong có nước, chỉ cần xoay nắp lò luyện đan để hình vẽ trên nắp di chuyển đến một vị trí nhất định là có thể khởi động được cơ quan phía dưới con thú vọng thiên này, nước trong vách lò sẽ phun ra từ miệng con thú, như vậy, lúc luyện đan không cần phải mở nắp lò để tiếp nước."

Tôi gật đầu khen thật kỳ diệu. Có điều, một cơ quan xảo thuật đến vậy thật ra ở Trung Quốc cũng chưa tính là đặc biệt, sao lại nói cơ quan này là mấu chốt để giải mã cuốn sách lụa Chiến quốc chứ?

Chú Ba bảo, vấn đề không phải ở tác dụng của cái cơ quan này, mà là phương thức vận hành của nó. Nói đoạn, chú bèn lấy ra một chiếc kính lúp rồi bảo tôi soi cho kỹ hoa văn dưới đáy lò luyện đan.

Ảnh chụp nhỏ quá, tôi soi tỉ mỉ mãi mới thấy dưới đáy lò này, nếu lấy con thú vọng thiên làm trung tâm, thì bốn phía có rất nhiều những điểm chạm nổi li ti cực nhỏ, nhiều vô cùng, chằng chịt chi chít, không nhìn cẩn thận thì lại tưởng là rỉ đồng.

"Đây là gì?" Tôi vẫn không hiểu nên lại hỏi.

"Mày không biết cũng dễ thông cảm thôi. Phù điêu ở đáy lò này chính là tinh đồ thời thượng cổ đấy."

"Tinh đồ thời cổ?" Tôi sửng sốt một lúc, "Tức là bản đồ vị trí các vì sao trên bầu trời ạ?"

Chú Ba gật đầu, sau đó cầm một tấm ảnh chụp hình vẽ giải mã ra từ cuốn sách lụa Chiến quốc cho tôi so sánh: "Đây là chỗ khéo léo nhất của cơ quan này. Đáy lò là một bức tinh đồ thời cổ, khi xoay nắp lò đến một góc độ chính xác, đường cong trong hình vẽ trên nắp lò này sẽ trùng khớp với sáu vì sao trong bức tinh đồ dưới đáy lò, từ đó sẽ mở được cơ quan."

Tôi nghe xong lập tức nhớ ra điều gì, sau đó nghĩ một lát liền bừng tỉnh đại ngộ: "Hai hình vẽ trùng khớp được lên nhau, nói vậy thì đường cong kỳ quặc trên cuốn sách lụa Chiến quốc thật ra lại là một tấm 'bản đồ sao quay' ư?"

Chú Ba gật đầu: "Đúng vậy."

Bản đồ sao quay(*) là một loại dụng cụ chiêm tinh. Bởi vì sao trên trời phải đến hàng ngàn hàng vạn, hơn nữa, chúng lại di chuyển tùy theo sự biến hóa của từng thời điểm trong mùa, mỗi lần tiến hành chiêm tinh lại phải tìm ra mấy vì sao đặc biệt kia trong hằng ha sa số muôn vì tinh tú là chuyện cực kỳ khó khăn, cho nên từ đó mà loại bản đồ sao này được ra đời. Bình thường, người ta đều căn cứ vào các vì sao và thứ tự sắp xếp của chúng để nối thành đường cong, sau đó chỉ cần đối chiếu với vị trí của sao Bắc Đẩu trên bản đồ cho đúng là sẽ có thể xoay bản đồ sao theo la bàn và nấc của mùa, những đường cong đặc biệt kia sẽ trùng khớp lên những vì sao mà ta đang tìm kiếm.

(*) Nguyên văn là Tinh bàn, tức là cái Astrolabe. Bn đ sao quay là mình chém vì thấy nó giống thứ được mô tả trong đây. Thực ra astrolabe phức tạp hơn rất nhiều vì nó có nhiều đĩa xoay có thể thay thế cho nhau, thể hiện vị trí sắp xếp của tinh tú trong các chòm sao biến đổi theo nhiều thời điểm trong năm. Mấy cái khấc xung quanh chính là nấc của mùa, dựa vào đó mà quay bản đồ sao cho chuẩn thời điểm, vì vị trí và sắp xếp của các chòm sao sẽ thay đổi tùy mùa.

Tôi không khỏi đập bàn tán thưởng. Chu choa, cái này đâu có phải khó nghĩ lắm đâu mà sao ban nãy lại không nghĩ đến nhỉ. Chuyện này cũng rất hợp logic nhé, thuật chiêm tinh thời Chiến quốc đã cực kỳ phát triển, mà người ở thời đại đó thì cho rằng sự vận hành của thiên tượng là đại diện cho sự vận động của vạn vật, từ đó có thể nhìn thấu được một vài thiên cơ. Những thiên cơ này thường là điềm báo cho những thay đổi của một quốc gia, chiến tranh hoặc những biến cố quan trọng, bình thường không thể tùy tiện tiết lộ. Thiết Diện Sinh đã giấu tinh đồ do chính mình quan sát được vào trong cuốn sách lụa, âu cũng là chuyện dễ hiểu.

Bức tinh đồ này đồng thời lại xuất hiện trên lò luyện đan, có lẽ là thiên tượng này có một hàm nghĩa đặc biệt nào đó, lôi kéo sự chú ý của quá nhiều nhân vật, rất có khả năng là như vậy.

Chú Ba liền gật gù: "Ranh con tiến bộ rồi đấy, nói phải lắm. Sau khi mấy thứ này được vận chuyển sang Mỹ, Cầu Đức Khảo cũng lập tức phát hiện ra được bí mật này. Lão cũng giống như mày, nghĩ ngay đến thuật chiêm tinh."

Đây là một phát hiện khiến người ta cực kỳ phấn chấn, có thể nói là lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử ngành khảo cổ. Cầu Đức Khảo lại một lần nữa tạo được tiếng vang, thế nhưng vào thời điểm đó lão không còn quan tâm đến điều đó nữa. Lão đã hoàn toàn chìm trong mê muội vào cái quá trình khảo cổ này: tinh tượng được khoanh ra trong tấm tinh đồ này mang hàm nghĩa gì? Nó bị che giấu kín đáo đến như vậy, chắc chắn tinh tượng này đã dự báo một sự kiện nào đó vô cùng nghiêm trọng, không thể để người khác biết.

Sau khi đem tinh đồ và bản đồ sao quay chồng khớp lên nhau, lão liền tìm ra được sáu vì tinh tú đặc biệt trong cả tấm tinh đồ, hợp thành hình vẽ tinh tượng, sau đó đi tra trong tư liệu sách cổ hòng tìm hiểu xem tinh tượng này trong thuật chiêm tinh là có ý nghĩa gì.

Thế nhưng, chiêm tinh học của Trung Hoa cổ đại dường như cũng có họ hàng với phong thủy học, cho nên phức tạp vô cùng, thậm chí có khi còn thâm sâu biến ảo khó lường hơn cả phong thủy, gần như không hề có một hệ thống tư liệu nào. Bức tinh đồ ẩn giấu trong cuốn sách lụa Chiến quốc này là biểu thị cho thiên cơ gì, đây là điều hoàn toàn không có cách nào tra cứu nổi.

Lúc đó phương pháp duy nhất để giải bí mật này là phải tìm mấy vị cao nhân kia, thế nhưng thời buổi đó ở Mỹ thì đào đâu ra cao nhân, cho nên Cầu Đức Khảo mới một lần nữa nhờ cậy Giải Liên Hoàn xâm nhập vào xã hội Trung Quốc để dò la tin tức.

Tuy nhiên, lần này Giải Liên Hoàn không thể hoàn thành được nhiệm vụ. Trong thời đại đó, hễ ai có chút hiểu biết về phong thủy Chu Dịch thì đều bị đấu tố đến mức bị nhốt cả trong chuồng bò rồi, những người lọt lưới đều lo sợ nơm nớp, nào ai dám ho he chút gì. Việc dò la thăm hỏi cũng phải lén lén lút lút, bất tiện khủng khiếp.

Một lần tìm kiếm này phải mất đến tận hai năm mà vẫn không thu được kết quả gì, cùng lúc đó, công việc nghiên cứu khác ở Mỹ cũng không hề có bất cứ tiến triển nào.

Rơi vào đường cùng, Cầu Đức Khảo đột nhiên lại nảy ra một sáng kiến. Sự chú ý của lão một lần nữa tập trung vào cuốn sách lụa Chiến quốc. Lão phỏng đoán rằng, cuốn sách lụa đã chứa bức tinh đồ, vậy thì có lẽ trong một cuốn khác sẽ có bí mật của tấm tinh đồ được ghi lại.

Vì thế, lão một mặt bắt đầu thu mua ồ ạt một đống lụa vàng nước Lỗ, một mặt nhăm nhe bám càng ông nội tôi - người đã bán cuốn sách lụa Chiến quốc cho lão năm xưa. Dựa theo kinh nghiệm của lão, thổ phu tử bình thường đều là loại trộm cắp chẳng chịu ra về tay không, cuốn sách lụa này không có thể nào chỉ tồn tại có duy nhất một cuốn, mà ông tôi hẳn đã phải chôm trọn cả bộ mang ra mới đúng. Phần còn lại kia chắc vẫn còn trong tay ông nội.

Lúc bấy giờ quan hệ giữa Giải Liên Hoàn và Cầu Đức Khảo cực kỳ ăn ý. Lòng lang lại gặp dạ sói, hắn liền giúp Cầu Đức Khảo đến chỗ ông tôi thăm hỏi dò la. Đáng tiếc là ông nội nhà tôi miệng ngậm chặt kín như hũ nút (aka Bình Kín Miệng :">), không dò la ra được điều gì. Đến đường cùng, Giải Liên Hoàn bèn đi hỏi chú Ba. Lúc đó, chú Ba đang rất quan tâm đến những ghi chép trong cuốn bút ký của ông nội. Rượu vào một cái, ồ ạt lời tuôn, chú liền đem tất cả những điều ông tôi trải qua lúc trộm sách lụa Chiến quốc ra ngoài làm thành chuyện phiếm kể bô bô hết ráo.

Tôi nghe đến đây, nhịn chẳng được bèn nói: "Chú Ba, thì ra lão già ngoại quốc đó biết rõ chuyện huyết thi cổ mộ, là vì chú tự nói ra sao?"

Chú Ba liền cười khổ, lắc đầu bảo: "Lúc đó thật sự là uống nhiều quá. Rượu vào một cái chú cũng chẳng nhớ nổi rốt cuộc đã kể cho hắn những gì, về sau nói chuyện với lão Tây đó chú mới biết. Chuyện này chú cứ hối đến mức xanh lét cả ruột gan ra rồi đây."

Tôi cũng cười đau khổ với chú. Chuyện này quả thật quá mức kịch tính rồi. Có điều nói ra thì, hồi đó Cầu Đức Khảo chọn Giải Liên Hoàn, chắc cũng sớm biết quan hệ giữa hai nhà họ Ngô và họ Giải, đã sớm có ý định này rồi. Sự quỷ quái bí hiểm trong cách làm việc của lão già người nước ngoài kia thật sự khiến cho người ta phải sợ hãi.

Bấy giờ, sau khi Cầu Đức Khảo nhận được tin tức, lão từng có ý định một lần nữa đi trộm mộ huyết thi, đáng tiếc là Giải Liên Hoàn lại không đổ đấu, mà tìm người khác thì lão không kiếm được ai. Thời đó quan hệ Mỹ - Trung bắt đầu ấm dần trở lại, lão cảm thấy thời cuộc sẽ có biến chuyển, bèn kiên nhẫn náu mình chờ thời trong một thời gian ngắn, và quả nhiên lão đã đợi được một cơ hội chín muồi. Thế là, lão dẫn theo một đám người làm khảo cổ, gấp rút lên đường trở lại Trung Quốc, bắt đầu tính toán cho lần hành động này. Từ đó mới xảy ra những sự việc chú Ba từng gặp phải lúc trước.

Câu chuyện sau đó thì đoán đại cũng ra. Chú Ba đêm trước vừa ra được khỏi mộ cổ, chiều hôm sau Cầu Đức Khảo cũng mò được vào trong. Khỏi nói cũng biết, chuyến đi này rốt cuộc đã biến thành một vụ tai ương. Vào thời điểm bọn chúng mở cái hốc tối dưới đáy quan tài, bọ ăn xác chúa bay ra suýt nữa đã giết sạch mọi người có mặt trong mộ cổ lúc ấy.

Cũng may mà hồi đó Giải Liên Hoàn tìm được một gã tay chân tương đối thông minh. Chính nhờ anh ta châm thuốc nổ vào thời khắc nguy hiểm nhất , khiến căn phòng bên trong nổ sập hoàn toàn nên Cầu Đức Khảo và Giải Liên Hoàn lúc đó đang ở căn phòng bên ngoài mới giữ được tính mạng. Tiếc thay, chính anh ta và toàn bộ những người có liên quan đã bị vùi chết hết trong ngôi mộ cổ.

Cảnh tượng lúc đó cực kỳ khủng khiếp. Cầu Đức Khảo tận mắt chứng kiến những sự ấy, chịu đả kích rất lớn, thần kinh gần như trở nên bất ổn. Những hiểu biết, những suy nghĩ của lão về Trung Quốc được gây dựng trong suốt vài chục năm nay đã hoàn toàn sụp đổ. Sau khi quay lại Trường Sa, lão lập tức trở về nước Mỹ, lâm bệnh nặng một hồi, xém nữa phát điên lên mà chết. Những nghiên cứu về cuốn sách lụa Chiến quốc kia, lão cũng ngừng lại ngay lập tức.

Tuy nhiên, chúng ta đã biết đó chỉ là tạm thời. Một năm sau là đến thời kỳ của đợt khảo cổ dưới biển lần thứ hai. Bánh xe vận mệnh bắt đầu từ dưới mặt biển Tây Sa, càng xoay lại càng điên cuồng.

Chương 13. Chân tướng Tây Sa

HOÀNG SA - TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM

Câu chuyện về Cầu Đức Khảo đến đây tạm dừng, tiếp theo là những diễn biến xảy ra khi Giải Liên Hoàn đi tìm chú Ba.

Lời kể của chú Ba rất rõ ràng, rành mạch, khiến tôi có thể hiểu được nguyên nhân sâu xa bên trong. Tôi thật không ngờ chú Ba đã dính vào chuyện này từ lâu. Hơn nữa là công ty của A Ninh và nhà họ Ngô chúng tôi lại có liên quan sâu sắc đến thế.

Chú Ba sau khi một mạch kể tuồn tuột ra hết thì nghỉ một lát, bảo tôi nếu có câu hỏi gì, hay có gì không tin thì bây giờ có thể hỏi chú luôn.

Tôi biết chú chỉ dỗi thế thôi, rõ ràng là vì ban nãy tôi không tin ổng, cho nên ổng vẫn còn để bụng lắm.

Tôi ngẫm nghĩ một lúc, không thể xổ toẹt là không tin được rồi, nhưng quả thực có mấy chỗ tôi vẫn thấy chưa được rõ ràng.

Vừa rồi chúng ta cũng đã biết, Cầu Đức Khảo và Giải Liên Hoàn đã gian díu với nhau từ lâu, lúc đó thấy mặt nhau chẳng qua chỉ là một lần gặp lại. Vả lại, căn cứ vào những chuyện mà tôi biết sau này, tôi đoán rằng mục đích khiến Cầu Đức Khảo tìm đến Giải Liên Hoàn rất có thể chính là muốn hắn trà trộn vào đoàn khảo cổ Tây Sa của Trần Văn Cẩm, lặn xuống ngôi mộ dưới đáy biển của Uông Tàng Hải để lấy một vật cho lão. Mà vật đó rất có thể là thứ Uông Tàng Hải dùng để cất giấu bí mật của Đông Hạ: xà mi đồng ngư.

Như vậy, Cầu Đức Khảo biết tin tức về mộ huyết thi chính là do tự chú Ba để lộ ra. Điều này không có nghi vấn gì nữa, nhưng còn ngôi mộ dưới đáy biển? Một nơi bí mật như vậy, vì sao Cầu Đức Khảo lại có thể biết đến nó được? Lẽ nào cũng là do chú Ba tiết lộ cho lão biết sao? Không thể có khả năng này được.

Còn nữa, nếu dựa theo cách nói của chú Ba thì rõ ràng toàn bộ nguyên nhân ở đây đều bắt đầu từ cuốn sách lụa Chiến quốc. Thế nhưng, Uông Tàng Hải ở Tây Sa và sách lụa Chiến Quốc thì liên quan quái gì tới nhau được? Vậy thì vì sao Cầu Đức Khảo lại đánh mắt sang đến tận Tây Sa?

Tôi liệt kê những vấn đề này ra, chú Ba nghe xong liền gật đầu bảo: "Mày nghĩ đến đúng điểm mấu chốt rồi đấy. Quả thực kẻ sai Giải Liên Hoàn trà trộn vào đội khảo cổ chính là Cầu Đức Khảo. Nhưng có điều, mày mới chỉ đoán đúng có một nửa thôi. Theo chính lời lão ta đã nói, bảo Giải Liên Hoàn vào cổ mộ lại không phải là vì xà mi đồng ngư, mà chỉ muốn để hắn chụp lại hình ảnh thi thể bên trong quan tài."

Về phần lý do vì sao thì lão người nước ngoài kia không chịu nói. Đồng thời, cả chuyện lão moi được tin tức về mộ Uông Tàng Hải từ đâu ra, lão cũng không chịu tiết lộ nốt. Lúc chú Ba hỏi thì lão bèn dùng một câu cách ngôn của Trung Quốc, ra vẻ thần thần bí bí: "Thiên cơ bất khả lộ."

"Có điều," chú Ba sáp lại gần tôi nói, "Sau này có xảy ra một chuyện, làm chú ít nhiều cũng đoán ra được chút gì đó. Mày nghe thử xem có lý hay không."

Tôi gật đầu bảo được. Chú bèn ngồi ngay trên giường, dùng ngón tay vẽ ra mấy điểm. "Chú từng nghĩ, khi lão già ngoại quốc kia trở lại Trung Quốc, nhắm chòng chọc vào Tây Sa thì đã là một năm sau chuyện ở Trường Sa, suy ra, lão biết đến sự tồn tại của ngôi mộ dưới đáy biển hẳn cũng chỉ trong một năm này. Như vậy, trong một năm ấy chắc chắn đã xảy ra một sự việc gì đó, tiếp theo thì Giải Liên Hoàn nắm được tin tức về việc này."

"Nhưng chúng ta lại biết rõ rằng, trong khoảng thời gian đó Cầu Đức Khảo đã chịu một đả kích rất lớn, dĩ nhiên không thể chỉ vì một tin tức dưới đáy biển có cổ mộ đã hồi tỉnh ngay lập tức, rồi toàn tâm toàn ý tập trung vào một việc khác chả liên quan. Trong lúc đó, chuyện có khả năng thu hút sự chú ý của lão nhất, hẳn chỉ có thể là những chuyện liên quan liên quan đến cuốn sách lụa Chiến quốc mà thôi. Như vậy, chúng ta có thể suy ra được, sự việc kia chắc chắn có liên quan đến cuốn sách lụa. Cầu Đức Khảo bị tin tức về sách lụa Chiến quốc thu hút trước, sau đó mới chú ý đến chuyện Tây Sa."

"Đến đây thì không sao đoán được sự việc đó rốt cuộc là cái gì, tuy nhiên, căn cứ vào những sự kiện đã xảy ra về sau, chú thấy rất có thể lão già nước ngoài này đã gặp được một người. Người này hẳn là đã từng vào trong ngôi cổ mộ dưới đáy biển, và rất có thể, chính kẻ này đã giúp Cầu Đức Khảo giải mã được bí mật đằng sau bản đồ sao trong cuốn sách lụa. Mà bí mật này tất có liên quan đến cổ mộ của Uông Tàng Hải, đẩy sự hứng thú của Cầu Đức Khảo về phía Tây Sa. Vì vậy, Cầu Đức Khảo mới đến Trung Quốc lần nữa, tìm Giải Liên Hoàn, âm mưu trà trộn vào trong đội khảo cổ."

"Sao chú khẳng định là lão ta đã gặp một người, chứ không phải là lại xảy ra một sự việc nào khác?" Tôi hỏi lại.

Chú Ba đáp: "Là bởi vì tài liệu. Những tài liệu của Cầu Đức Khảo về ngôi cổ mộ này quá chính xác, nhất định là do có người đã vào đó trước, rồi sau mới soạn lại, chứ không còn bất cứ khả năng nào khác có thể khiến lão nắm được nhưng thông tin tỉ mỉ đến thế."

Tôi gật đầu. Cái này cũng có lý lắm, nhưng mà bản đồ sao trong cuốn sách lụa Chiến quốc thì có liên quan gì đến cổ mộ thời Minh? Chuyện này thực sự có phần khó tin. Lẽ nào Thiết Diện Sinh xem được tinh tượng, biết hơn ngàn năm sau sẽ có một gã đồng nghiệp xây mộ ở nơi đó chăng?

Nếu xem tinh tượng mà dự đoán được đến cả những thứ lông gà vỏ tỏi thế này thì chỉ e đến nay cũng chẳng thất truyền nổi. Điểm này, còn phải khảo cứu đã.

Sự việc sau đó chính là câu chuyện ở Tây Sa. Sau lần đó, mọi chuyện đều rối thành một mớ bòng bong. Toàn bộ đội khảo cổ đều biến mất trong ngôi cổ mộ dưới đáy Tây Sa sâu thẳm, chỉ có một mình chú Ba là trở về. Có một dạo Cầu Đức Khảo đã từng cho rằng chính chú Ba đã giết chết tất cả mọi người. Thế nhưng, xem biểu hiện của chú Ba sau đó thì chính bản thân chú cũng hoàn toàn không nắm rõ được nội tình cụ thể. Sự việc này đã trở thành một bí ẩn khổng lồ. Chân tướng ra sao, còn phải xem chú Ba nói thế nào đã.

Nghỉ lấy hơi trong chốc lát, chú Ba làm một động tác tay, chuẩn bị tiếp tục kể. Tôi cũng lên dây cót tinh thần trở lại, ngồi thẳng người lên.

Trước tiên, chú hít một hơi thật sâu, hiển nhiên là muốn thay đổi tâm trạng. Vừa rồi kể toàn là chuyện của Cầu Đức Khảo, chẳng ra đâu vào đâu, hiện giờ việc tiếp theo cần nói đến, là những gì chính bản thân chú đã trải qua.

Hít thở xong, sắc mặt chú trầm hẳn xuống, ngữ điệu cũng trở nên thật chậm, có phần do dự.

Chú ngẫm nghĩ, rồi lại rào trước với tôi: "Phải nói lại hồi trước, về vụ Tây Sa, có một việc, lúc ấy ở bệnh viện chỗ Tế Nam đúng là chú Ba đã lừa mày. Có điều, chú cũng là vạn bất đắc dĩ, cho đến nay chú vẫn day dứt vụ đó, thật sự không muốn nhắc lại lần nữa, mày phải hiểu cho chú."

Tôi gật đầu, cũng không đáp lời. Chuyện bị chú Ba lừa tôi đã sớm biết từ lâu. Tôi cũng không muốn trách chú, tôi chỉ cần biết sự thật thôi.

Chú Ba hớp miếng nước rồinói tiếp: "Thực ra, phát hiện thấy ngôi mộ dưới đáy biển chỉ là vở kịch chú mày diễn thôi. Từ rạng sáng hôm đó chú đã cùng Giải Liên Hoàn đi vào đó một lần rồi. Có điều, chỗ chú vào có lẽ không giống với nơi chúng mày vào, bởi vì Giải Liên Hoàn có tài liệu cực kỳ chi tiết. Bọn chú vào là vào thẳng luôn trung tâm cổ mộ, bởi sự ủy thác của lão nước ngoài kia, nên mục tiêu là phòng đặt quan quách của Uông Tàng Hải."

"Ý chú là một trong ba mộ thất ở giữa à?" Tôi nhớ lại kiến trúc của ngôi mộ dưới đáy biển.

Chú Ba liền cười khổ lắc đầu: "Không, chỗ mày nói tới kia chỉ là tầng thứ nhất của cổ mộ. Ngôi mộ thuyền đắm này cực kỳ rộng lớn, lớn hơn tưởng tượng của mày nhiều. Quan quách của Uông Tàng Hải nằm sâu tít tận đáy cổ mộ, hơn nữa lại trong tình trạng cực kỳ cổ quái... dùng ngôn ngữ khó hình dung lắm."

Hồi đó tài liệu mà Giải Liên Hoàn lấy được từ tay Cầu Đức Khảo tương đối chi tiết, có thể thấy tài liệu gốc nằm trong tay Cầu Đức Khảo hẳn là cực kỳ có uy tín. Đồng thời, Cầu Đức Khảo còn cung cấp cho Giải Liên Hoàn một bộ máy ảnh kèm đèn flash. Nghe nói đó là loại tiên tiến nhất thế giới vào năm ấy, cực kỳ nhỏ nhắn, lại còn có tính năng chống thấm.

Tài liệu cho biết, ở bên trái bãi đá san hô ngầm mà đội khảo cổ khảo sát khoảng nửa dặm có một nơi mà dân bản xứ hay gọi là "Sa đầu tiêu", là một hệ thống đá ngầm san hô do mấy chục tảng đá ngầm lớn cùng hằng hà sa số những khối đá ngầm nằm dưới nước tạo thành. Toàn bộ khu vực đá ngầm này nối thành một thể ở dưới nước, là một bộ phận của một rặng san hô khổng lồ. Ở nơi đó, trong một phiến đá ngầm có một động đá vôi chìm trong nước, nằm bên dưới mặt biển, cho dù vào lúc thủy triều xuống cũng chỉ lộ ra một phần rất ít. Đây chính là cửa để thợ thủ công dẫn nước vào phong bế ngôi mộ thuyền đắm. Do đó, đi vào đây là sẽ tiến thẳng được vào tận bên trong rặng đá san hô. Con thuyền đắm khổng lồ dưới đáy biển kia chính là được chôn giấu dưới tầng cát biển trong lòng rặng đá ngầm này.

Chỉ cần đi vào hang đá san hô là có thể một đường tiến thẳng vào bên trong con thuyền đắm. Sau đó phải đi như thế nào, phải cẩn thận với những thứ gì, trong tài liệu đều ghi rất tường tận. Quả thực ngôi mộ cổ này cứ như thể là do Cầu Đức Khảo thiết kế nên vậy.

Tài liệu chi tiết đến vậy, dù có là tài liệu thời cổ đi chăng nữa cũng không thể đạt đến trình độ này được. Cho nên, chú Ba mới ngờ rằng ngôi mộ cổ dưới đáy biển kia, chỉ e từ lâu đã sớm có người đặt chân vào. Có thể, người này tuy vào được đến nơi nhưng ra tay lại không thành, cho nên Cầu Đức Khảo không thể không tìm người hỗ trợ một lần nữa.

Bản thân Giải Liên Hoàn cũng biết người biết ta, hiểu rõ khả năng cũng như vị trí của bản thân, cho nên không đáp ứng bất cứ yêu cầu nào đòi hỏi phải xuống đất. Nhưng thân phận của Cầu Đức Khảo lại khác. Một là Giải Liên Hoàn cảm thấy mình mang nợ lão, hai là trong suốt một năm qua, Giải Liên Hoàn đã tham gia vào rất nhiều hoạt động trong gia tộc, rốt cuộc cũng được xuống đổ đấu vài lần, lá gan, kiến thức và thân thủ đều khác hẳn ngày trước. Vả lại, điều kiện Cầu Đức Khảo đưa ra cũng rất cao, bản thân hẳn lại đang trong độ tuổi tự tin đến mù quáng, cho nên cuối cùng vẫn đáp ứng như bị ma xui quỷ khiến.

Lúc đó, sau khi chú Ba biết lão già ngoại quốc và Giải Liên Hoàn có gian tình (=]]]), liền cực lực phải đối Giải Liên Hoàn tham gia vào đội khảo cổ. Tuy nhiên, sau đó đã xảy ra rất nhiều chuyện, khiến chú Ba cảm thấy sự việc có gì đó cực kỳ không ổn. Vì đã biết mục đích thật sự của lão già ngoại quốc và Giải Liên Hoàn, chú Ba bèn mạo hiểm liều một lần. Chú thuyết phục Văn Cẩm, cố ý để cho Giải Liên Hoàn tham gia đội khảo cổ, ngoài mặt không lộ vẻ gì, nhưng thật ra đà ngấm ngầm theo dõi xem hắn sẽ hành động như thế nào.

Mọi việc cứ thế mà phát triển, cứ như thể ma xui quỷ khiến. Phải nói là chuyện này hãy còn lắm ẩn tình, nhưng những cái đó đều không quan trọng, ở đây giản lược lại, chỉ nói đến chuyện Giải Liên Hoàn ở Tây Sa, và về sự việc xảy ra trước cái đêm hắn gặp sự cố thôi.

Hôm đó, công tác của đội khảo cổ đã tiến vào ngày đầy tiên của giai đoạn cuối cùng, công tác trục vớt chuẩn bị kết thúc, việc cũng nhẹ nhàng, cho nên trước khi đi ngủ mọi người uống chút rượu, ngủ rất say.

Giải Liên Hoàn chờ mãi mới có được cơ hội này. Bây giờ chẳng mấy ngày nữa là kết thúc công việc, hắn biết mình phải tận dụng thời cơ ngay vì sẽ không có lần thứ hai nữa. Vì vậy, sau khi xác định mọi người đã ngủ say hết, hắn bèn giả bộ đi tiểu, nhưng kỳ thực là đi thám thính thực hư, rình cơ hội chuồn xuống biển.

Hắn không biết rằng, thằng bạn chơi chung từ thưở mặc quần thủng đít kia, cái thằng dại gái Ngô Tam Tỉnh, giờ đã là một tay lão luyện giang hồ, tâm tư vừa kín đáo lại tinh ranh, từ lúc leo lên thuyền, nhất cử nhất động của hắn đều đã bị người này theo dõi kỹ càng.

Lại nói, hồi đó chú Ba cũng khá là uất ức. Chú từ lâu đã ngứa mắt đủ kiểu với Giải Liên Hoàn. Vì không biết mục đích của Giải Liên Hoàn, nên khi ở trên thuyền, đối với chú Ba, Giải Liên Hoàn chính là một quả bom hẹn giờ, không rõ uy lực, cũng không biết lúc nào sẽ phát nổ tan tành, cái lúc vốn có thể cùng Văn Cẩm sung sướng tâm sự chuyện yêu đương, thì lại thành ra phải nhăm nhăm phòng bị hắn.

Còn có một nguyên nhân tương đối khó nói mà chú Ba không đề cập trực tiếp, thế nhưng tôi vẫn đoán được từ lời kể của chú: rõ ràng là Văn Cẩm rất ưa thích Giải Liên Hoàn. Hắn ta đích xác là một tên công tử bột chính hiệu, biết cách lấy lòng chị em phụ nữ, tình tính khác với chú Ba rất nhiều; hơn nữa, tướng mạo và nhiều phương diện khác của hắn không hề kém chú Ba chút nào. Chú Ba là loại tay mơ trong tình trường, khó tránh khỏi việc ghen tuông.

Thế nên Giải Liên Hoàn có động tĩnh là chú Ba mừng đến phát cuồng. Lúc Giải Liên Hoàn vừa hạ xuồng cao xu xuống, định chèo ra xa khỏi con tàu đánh cá thì chú Ba đột nhiên xuất hiện, dùng một tay đè hắn xuống, ấn chặt lên boong thuyền.

Chú Ba đột ngột xuất hiện làm Giải Liên Hoàn không kịp lường trước, nhưng khi hắn vừa nhận ra đó là chú Ba thì, ngược lại, không còn sợ hãi nữa. Bởi vì, nếu là người khác thì lúc đó dễ bị ụp cái mũ phản quốc trốn sang Việt Nam, nhưng nếu là chú Ba thì khác. Cả hai đều nắm thóp nhau, chú Ba cũng không phải loại tự bắt bí chính mình, cho nên, hắn bèn nhẹ giọng bảo chú buông tay ra.

Tuy nhiên, chú Ba đã chất chứa căm hờn với hắn từ lâu, hơn nữa vẫn còn khúc mắc, có lý nào lại thả cho hắn chạy đơn giản vậy. Chú nghiến răng nghiến lợi vặn cho hắn suýt gãy tay, hỏi hắn trăm phương ngàn kế hòng chui vào đội khảo cổ, lại chuồn ra biển khuya như vậy, rốt cuộc là muốn làm gì?

Vụ này chú cũng hơi bị mượn gió bẻ măng, cố tình xả nỗi ấm ức của bản thân. Giải Liên Hoàn lúc đầu còn ngang ngạnh cãi bướng, nhưng trong lòng cũng âm ỉ lửa thiêu. Ở Trường Sa, ngoại trừ những bậc bề trên ra thì làm gì có ai dám đối xử với hắn như vậy, vì thế hắn hạ thấp giọng mà chửi bới luôn mồm.

Chú Ba căn bản không tiêu hóa nổi cái bản mặt kia, nghe hắn chửi liền cứ thể thẳng tay dúi đầu hắn xuống nước, cho đến khi mắt hắn trợn trắng mới nhấc lên. Cứ thế lặp lại ba lần bảy lượt, Giải Liên Hoàn đã rũ cả ra, đành phải xin tha.

Bấy giờ chú Ba mới hỏi lại câu ban nãy, hắn bèn đem tất cả mọi chuyện từ trước đến giờ nói rõ ngọn ngành.

Sau khi nghe xong, hai mắt chú Ba sáng lòe, không tin nổi vào lỗ tai mình nữa. Hóa ra dưới đáy biển này lại còn có cả một ngôi mộ thuyền đắm nữa cơ đấy! Đây thật sự là chuyện không thể ngờ được. Trong cuốn bút ký của ông già nhà mình cũng từng ghi lại lời người xưa kể về thuyền táng dưới đáy biển, có điều loại hải đấu này cực kỳ hiếm gặp, chính bản thân ông bô cũng chỉ là nghe nói thôi chứ không phải tự tìm hiểu. Nơi đáy biển mênh mông, cát trải vạn dặm, muốn tìm được một manh mối còn khó hơn gấp vạn lần so với trên đất bằng. Ấy vậy mà một lão già người nước ngoài lại có thể biết được tường tận đến vậy, rốt cuộc lão là thần thánh phương nào?

Nghĩ đến đấy, chú Ba liền thấy trong lòng ngứa ngáy khó chịu, chỉ hận không thể lập tức xuống dưới biển xem tận mắt lấy một lần. Chú liền buông Giải Liên Hoàn ra, nói nhỏ: "Chỉ thế thôi à? Thế mà mẹ kiếp cậu đéo nói sớm, quan hệ giữa tớ với cậu là như nào cơ chớ? Nói ra thì có làm sao? Không lẽ tớ nẫng tay trên của cậu được chắc?"

Giải Liên Hoàn đã oải lắm rồi, bèn nói: "Chuyện này là tớ phải gạt ông già nhà tớ ấy chứ, đương nhiên cũng không muốn cho các cậu biết rồi. Với lại tớ và cậu nào có thân thiết gì đâu, nói ra tớ lại sợ có thêm bất trắc. Cậu cứ thử nói thật lòng mà xem, nếu tớ nói thẳng ra thì cậu có còn cho tớ vào đội khảo cổ nữa không?"

Chú Ba thầm nghĩ thử thấy cũng đúng, đã thả lỏng tinh thần hơn nhiều, liền bảo với hắn: "Coi như cậu có lý. Có điều tớ phải nhắc nhở cậu, lão Cầu Đức Khảo này ở Trường Sa người ta gọi là "lão đầu bạc", cha này cũng không phải loại đơn giản đâu. Này người anh em, tớ thấy cái đấu này đổ cũng chả ngon lành gì, hay là cậu tạm thời bỏ qua đi, chúng ta về tìm mấy người nữa bàn bạc cho kỹ, hoặc là lần này để người anh em là tớ đây đi với cậu, cậu nói sao? Không phải nói khoác chứ anh em nhà cậu đây kinh nghiệm còn phong phú hơn cậu đó."

Giải Liên Hoàn "hứ" một tiếng khinh bỉ, đáp: "Thường nghe Ngô Tam Tỉnh cậu ranh còn hơn khỉ, đúng là không phải nịnh hót. Cậu muốn dây máu ăn phần thì cứ nói thẳng ra, chúng ta đã cùng hội cùng thuyền, đến nước này rồi thì dù cậu có nói thế nào, tôi còn có thể từ chối được hay sao?"

Chú Ba nghe xong, trong lòng cười lạnh, thầm nhủ cái thằng công tử bột này coi như cũng biết điều đấy. Thế là hai người tạm thời kết bè kết đảng, thỏa thuận sau khi đi vào rồi ai thích gì lấy nấy, không ai dính dáng gì đến ai, ra ngoài rồi lỡ có lấy phải hàng lởm thì cũng đừng hối hận.

Hành động của chú Ba lúc đó không thể bảo rằng vì hám lợi, nói ra thì cũng chẳng rõ ràng, thậm chí còn khiến người ta có cảm giác cứ giống hệt như những gì Bàn Tử hay làm, có thể thấy tính tình của chú Ba cũng không phải trưởng thành lên trong một sớm một chiều.

Thề độc xong, thu xếp hoàn chỉnh trang bị, hai người hạ xuồng cao su, thừa lúc đang đêm liền xuống biển, lần mò chèo đi suốt quãng đường. Dựa vào la bàn, chẳng bao lâu đã đến chỗ rặng đá san hồ "Sa đầu tiêu" mà lão nước ngoài nhắc tới. Chú Ba ngẩng đầu nhìn lên, đang lúc mây đen lấp kín mặt trăng, cả rặng đá san hô tối tăm mịt mùng, thầm giật mình một cái, nói với Giải Liên Hoàn: "Cậu đúng là chọn thời cơ tốt ghê gớm, giờ ánh trăng đến một tia sáng cũng chả có, mây đen úp đấu, vào động mù lòa, đi hai về một. Hoặc tớ, hoặc cậu, sợ là sẽ có một đứa phải ở lại trong đây, thôi khỏi màu mè gì nữa, tớ với cậu thân ai nấy lo nhé."

Chương 14. Bin sâu

Lời này là thật cũng lại là giả. Chú Ba nói như vậy, một là quả thực hôm đó đúng là ngày xấu, hai là ổng muốn dọa cho Giải Liên Hoàn một phen khiếp vía, âu cũng là cái tính khoái giỡn. Ai có một ông anh lớn trong nhà thì có lẽ sẽ hiểu suy nghĩ của chú Ba lúc đó, đây là kiểu thằng lớn thích hù dọa thằng bé để nâng cao vị thế của mình đây mà.

Nhưng Giải Liên Hoàn không phải thằng ngố, hắn tuyệt không phản ứng một chút gì, chỉ cười lạnh rồi không thèm đáp lời nữa. Chú Ba tự chuốc lấy xấu hổ.

Rặng đá san hô không lớn, có thể nhìn thấy rõ ràng những tảng đá trồi lên khỏi mặt nước. Mặc dù không biết cửa hang động ở chỗ nào, nhưng cũng không quá khó tìm. Giải Liên Hoàn chèo thuyền, chú Ba thắp cây đèn bão, tiến vào giữa bãi đá ngầm rồi mới bắt đầu chiếu lên từng hòn từng hòn dò xét. Không lâu sau họ đã tìm được cửa hang nằm bên dưới một khối đá ngầm hình răng hàm ở mặt Tây của rặng đá san hô.

Cửa hang rộng cỡ hai người chui lọt, sâu không thấy đáy, cứ như thể đã bám rễ trên rặng đá từ lâu. Bên mép đá còn thấy mờ mờ mấy dấu vết mài giũa do người xưa để lại, rõ ràng cái hang này đã từng được sức người đục đẽo mà thành. Cửa hang nằm khuất dưới mặt nước, ăn sâu vào tận chân tảng đá ngầm, nếu không phải là đã biết từ trước thì căn bản không thể phát hiện ra cửa hang từ trên mặt nước được.

Chú Ba khoác trang bị lên, định vào thẳng luôn nhưng bị Giải Liên Hoàn cản lại. Hắn nói rằng đường dưới nước này phức tạp, hắn nắm rõ đường đi nước bước, chi bằng để hắn đi trước thì hơn.

Nói vậy cũng có lý nên chú Ba không tiện miễn cưỡng, bèn để Giải Liên Hoàn chui vào trong hang trước, còn chú bám đít theo sau.

Vào động được ba mươi mét thì có thể thấy được nơi này là hang trống tự nhiên hình thành trong rặng đá ngầm san hô. Bên trong la liệt đầy những bộ xương san hô, măng đá san hô xiên tứ tung, tựa như những chiếc xương trong một bộ xương người khổng lồ cẩn vào hai bên tường hang đá. Có điều, đầu mút của những "phiến xương" này đều dung hợp với đá nham bốn phía chung quanh thành một thể, trông như vô số những con sao biển quái dị bị hút dính trên vách tường đá.

Hang động ẩn dưới đáy biển tương đối nguy hiểm, nhưng hai kẻ không có kinh nghiệm kia vốn không hề ý thức được mình đang làm cái gì, chưa soạn ra đối sách nào đã bơi thẳng một mạch vào bên trong.

Ước chừng đã đến bên trong hang động, sau khi bò đi khoảng hơn mười phút, chú Ba liền thấy được lối rẽ. Động đá san hô bên trong rặng đá ngầm san hô hệt như xúc tu bạch tuộc vươn dài ra bốn phia, nơi nơi đều là cửa động có thể đi. Có mấy cái rất nông, chiếu đèn pin vào là thấy được đầu kia, có những cái lại rộng đến kinh người, đằng sau cái cửa hang lớn cỡ cả một chiếc xe cam nhông là lòng hang sâu hun hút không thấy đáy. Vì ở trong đây ánh mặt trời không chiếu đến được nên hải quỳ và san hô rất ít, thế nhưng lại có rất nhiều những bầy cá nhỏ bảy sắc cầu vồng rực rỡ cùng với sao biển và hải sâm, khiến cho hang động này cũng không đến nỗi hiu quạnh.

Nhờ Giải Liên Hoàn dẫn dắt, chú Ba mới đi qua được hệ thống động đá ngầm san hô khổng lồ lại phức tạp vô cùng này, giống như con chuột đi xuyên qua cái hang chuột lắt léo. Để chừa một phương án hành động, chú dùng dao lặn đánh dấu hết từng chỗ rẽ, phòng khi lúc ở bên trong có gặp bất trắc gì.

Nửa giờ đồng hồ sau, bọn họ đã ra khỏi động đá san hô. Lúc bật đèn thăm dò rọi khắp chung quanh, chú Ba phát hiện ra mình đã vào đến cái cổ mộ khỉ nào đâu. Hiện ra trước mắt chú, là một nơi kỳ quái không sao hiểu nổi.

Nơi đó tựa như một cái hố đen vĩ đại sinh ra trong rặng đá san hô ngầm, bốn phía một màu đen như mực. Chú ngước lên liền bắt gặp những cành san hô thõng xuống trên đỉnh đầu, nhưng lúc chiếu đèn thăm dò xuống dưới chân lại chẳng soi được thứ gì cả, bên dưới là một vùng vực thẳm.

Nhiều năm đã trôi qua, dù tình huống lúc đó rất đỗi hãi hùng, nhưng chú Ba cũng không còn nhớ rõ mọi chi tiết, cho nên chú kể lể cả nửa ngày mà tôi vẫn nghe không hiểu rốt cục bọn chú đã lọt vào một nơi như thế nào. Cuối cùng, tôi đành phải lấy một tờ giấy ra để chú cố mà vẽ đại khái lại.

Tài vẽ của chú Ba rất không ra gì, xấu phải gọi bằng cụ, có điều vẽ lởm mà thể hiện được nhiều. Dựa vào trí tưởng tượng của mình và lời giải thích của chú Ba, tôi đoán ra được mang máng, dần dần quả thực cũng có hiểu ra một chút.

Theo ý hiểu của tôi, đó hẳn là một hang động khổng lồ ẩn náu bên trong rặng đá ngầm san hô, cụ thể là ở đâu thì không có cách nào để kiểm chứng. Cửa ra của động đá ngầm mà chú Ba đã tiến vào nằm ở đỉnh cao nhất của hang động này. Dưới chân thì đen ngòm một màu, cứ như thể bị lạc vào một khoảng không hư vô tối hù, xem ra độ lớn của hang động này không phải ghê gớm hạng vừa.

Hai người chú Ba đến được nơi này thì không còn đường để đi tiếp. Đằng trước trái phải đều là một khoảng trống hư vô. Đèn thăm dò chiếu xuống, trong nước xuất hiện cả một khoảng rộng lớn trắng phau phau toàn những con cua biển, phía dưới lại là vực sâu, soi đèn pin khắp nơi chỉ thấy, ngoại trừ rặng đá san hô phía sau ra thì chẳng còn bất cứ vật nào có thể lấy làm mốc nữa. Theo cách miêu tả của chính chú Ba, thì cứ như trôi nổi ngoài vũ trụ.

Cái cảm giác khi ấy thực ra khá là gay go, bởi vì, bất kể anh đang ở nơi nào, hễ ánh sáng đèn pin còn có thể soi tới thứ gì đó thì ít nhất anh còn có cảm giác về sự tồn tại. Thế nhưng, khi ở nơi đó, ánh sáng đèn pin của anh chiếu ra không hề có lấy một chút ánh phản chiếu nào, ngoại trừ tối đen thì chỉ là đen tối. Anh không biết được có cái gì đang chờ đợi anh ở phía trước.

Lúc bấy giờ đã tiêu hao rất nhiều dưỡng khí. Lặn xuống hang động dưới nước không giống thám hiểm bình thường, nó đòi hỏi phải kiểm soát chặt chẽ thời gian hoạt động, vì anh cần phải giữ lại một phần dưỡng khí đủ để có thể trở ra bên ngoài động, vì thế cũng yêu cầu người lặn xuống nước phải thường xuyên kiểm tra đồng hồ đo dưỡng khí. Chuyện này đối với chú Ba mà nói là một áp lực tâm lý tương đối lớn.

Tuy nhiên Giải Liên Hoàn lại như đã có tính toán từ trước. Sau khi lượn lờ mấy vòng trong nước, hắn liền ra hiệu cho chú Ba tắt đèn thăm dò.

Không có đèn thăm dò, vậy thì chính là tối tăm tuyệt đối. Chú Ba lấy làm kỳ lạ, thằng oắt này muốn làm gì vậy nhỉ? Giờ đường đã tìm không ra, nó lại còn muốn tắt thứ để chiếu sáng đi.

Có điều, trông bộ dạng khăng khăng một mực của hắn thì có thể thấy, chắc chắn cách làm này cũng là do lão già người nước ngoài kia bày cho rồi. Chú Ba biết bản thân cũng không có lựa chọn nào khác, bèn làm theo ý Giải Liên Hoàn, vặn tắt đèn thăm dò.

Sau khi cả hai ngọn đèn thăm dò đều tắt, màn đêm tối đen như nước mực loang ra bủa vây tới, đồng thời vòng sơn dạ quang ở đèn pin chống thấm trên thắt lưng hai người (thiết kế này là để đề phòng khi đi lặn vào ban đêm, có lỡ để đèn pin rơi xuống đáy nước cũng còn biết đường tìm lại được) từ từ sáng lên, đánh dấu vị trí của từng người bọn họ.

Giải Liên Hoàn ở bên đó hình như đã tháo đèn pin xuống, dùng làm gậy tín hiệu. Chú Ba trông thấy vòng sáng kia vung lên, chỉ ra một phương hướng.

Chú nhìn về cái hướng kia thì lờ mờ thấy được, thật sâu trong vùng tối mịt dưới chân, ở một nơi rất xa có một đám lớn những điểm sáng yếu ớt màu xanh lục, hình như là mắt của một loại sinh vật nào đó, đang chuyển động một cách lững lờ.

Chú Ba giật mình một cái, nhất thời căng thẳng vô cùng, vì chú từng nghe rất nhiều ngư dân kể lại rằng, ở biển thứ gì cũng có thể có, những đôi mắt màu xanh lục này sẽ không phải là của sinh vật rình rập trong bóng tối gì đó đấy chứ?

Nghĩ tới đó tay chú bất giác mò đến con dao. Đúng lúc này, Giải Liên Hoàn ở đằng kia lại vung đèn pin vài cái. Vòng sáng chỉ thị trên đèn pin bắt đầu chuyển động, ấy thế mà lại đi về phía cụm điểm sáng màu lục kia.

Chú Ba chửi thầm trong bụng. Đừng thấy chú bình thường cẩu thả tùy tiện, thực ra xuống đấu rồi là phong cách hành sự của chú cẩn thận lắm, Giải Liên Hoàn cứ đâm thẳng xuyên thủng như vậy thật sự là không ổn. Tuy nhiên, nếu như Giải Liên Hoàn đã hành động như vậy, chứng tỏ hắn ta đã biết những đốm sáng kia là gì rồi, nên mới ra hiệu cho chú cùng qua đó.

Cứ như vậy, vẫn những lời đó, chú Ba không đi theo không được. Chú trong lòng ảo não nhưng cũng chẳng còn cách nào.

Không có ánh đèn chiếu sáng, chỉ lặn xuống bơi theo một vòng sáng lạnh, người ta giống như thể thiếu mất đôi mắt. Cái cảm giác bị hòa tan vào trong bóng tối lạnh lẽo này, trước kia lúc xuống đấu chú Ba đã từng nếm trải vị đắng này, hôm nay lại được nếm lại lần nữa, hơn nữa còn là ở trong nước, chú Ba lại càng sinh ra cảm giác bất an.

Những đốm sáng màu lục từng chút từng chút gần sát lại, thế nhưng vì ánh sáng yếu quá nên vẫn cứ không thấy rõ được là cái gì. Tiến lại gần hơn, chú Ba kinh hoàng phát hiện ra những điểm chấm kia đúng là đang chuyển động, hơn nữa tốc độ còn không chậm. Ý nghĩ rằng đó là một đám quái vật đại dương lại càng trào dâng mãnh liệt.

Ấy thế mà Giải Liên Hoàn vẫn cứ như không nhận ra điều đó một chút nào, đuổi theo cực nhanh. Chẳng mấy chốc cả hai đã bơi tới chỗ phía trên đốm sáng này ba mươi mấy mét. Cơn sợ hãi của chú Ba đạt tới cực hạn, chú thoắt cái tiến lên, túm lấy Giải Liên hoàn không cho hắn tiếp tục bơi lại gần.

Giải Liên Hoàn không hiểu đầu cua tai nheo thế nào, cũng sợ đến nhảy dựng, ngừng lại.

Chú Ba dùng đèn pin làm ra một động tác, Giải Liên Hoàn cũng vẫy lại trả lời, nhưng cả hai đều không thể hiểu ý đối phương muốn diễn đạt.

Chú Ba vô cùng ảo não, thật muốn lập tức bật đèn thăm dò nói cho rõ ràng, nhưng lại sợ khoảng cách gần như vậy, lỡ mà soi ra bên dưới thật sự là thứ gì như cá mập chẳng hạn, thì đúng là ngay cả cơ hội chạy trối chết cũng chẳng có luôn.

Đang lúc lo lắng cân nhắc rốt cuộc phải làm thế nào để Giải Liên Hoàn hiểu rõ ý mình thì đột nhiên một luồng sáng trắng lóe lên, Giải Liên Hoàn thế mà lại mở đèn thăm dò sáng choang, rõ ràng hắn cũng thấy bực dọc đủ rồi, thật sự nhịn không nổi ý định hỏi xem chú Ba sao cứ níu chặt lấy hắn.

Chú Ba giật mình hốt hoảng, vừa che đèn, vừa cúi xuống nhìn phía dưới.

Ở bên kia luồng sáng, trong bóng tối bên dưới hiện lên một cái bóng trắng mờ mờ ảo ảo, đó là vật thể hình người quấn trong lớp áo lụa mỏng rách te tua. Thích ứng dần với ánh sáng đèn thăm dò, chú Ba lại càng thấy rõ ràng, lỗ chân lông toàn thân đều rúm ró hết lại.

Đó là một cái xác cổ trôi dật dờ trong nước, tư thế cực kỳ quái dị, mặt mũi mờ ảo không thấy rõ, tấm áo lụa trắng to lớn cứ như lớp màng của con sứa biển khổng lồ, bồng bềnh phiêu dạt trong nước tựa như một đóa hoa khổng lồ đến từ cõi u minh.

Chương 15. Xác trôi

Sâu trong màn nước âm u, tấm lụa trắng bọc quanh xác ướp cổ không biết đã ngâm trong nước bao nhiêu năm mà sớm đã nát tướp. Không phân biệt được xác kia là nam hay nữ vì vẫn còn cách đó một khoảng khá xa, chỉ thấy được hình dáng mờ mờ ảo ảo, không nhìn rõ được tình trạng cụ thể của cái xác.

Chú Ba mướt mồ hôi lạnh, nhưng đã trấn tĩnh lại ngay lập tức. Rõ ràng nếu đây là mộ thuyền táng thật, thì có một cái xác bập bềnh trôi nổi ở đây cũng không tính là chuyện quái gở.

Nhưng khi chú Ba dần bỏ tay đang che đèn ra thì lại thấy ở cuối luồng sáng trắng lạnh buốt như băng, trong bóng tối bên cạnh xác cổ kia lại xuất hiện một cái xác ướp khác, trang phục tương tự, lẩn khuất trong làn nước biển âm u.

Chú Ba có dự cảm chẳng lành. Chú tiếp tục lia đèn thám hiểm, quả nhiên phát hiện trong vùng tối bên dưới còn có rất nhiều xác cổ bọc lụa trắng khác đang bập bềnh trôi, dễ chừng phải đến ba bốn chục cái. Vô số những vạt áo lụa trắng toát cùng dập dềnh uốn lượn, cảnh tượng này thật khiến người ta cảm thấy ớn lạnh như nước đá châm vào tim phổi.

Vì đèn thám hiểm đang bật nên lúc đó không tài nào biết được ánh sáng lạnh lẽo yếu ớt màu xanh lục vừa rồi rốt cuộc là phát ra từ chỗ nào trên xác ướp nữa. Nhưng điều khiến người ta sởn gai ốc nhất chính là đám xác cổ kia lại không chịu đứng im, thi thể cứng đờ trong nước ấy thế mà còn đang chầm chậm di chuyển.

Tim chú Ba cũng muốn vọt ra khỏi cổ họng tới nơi rồi. Bên trong chiếc mũ sắt kín như bưng, đầu chú đầm đìa mồ hôi lạnh, bụng thầm nhủ may mà mình đã kéo Giải Liên Hoàn lại, chứ nếu vừa rồi cứ thế bơi qua, tiến sát gần đám xác cổ này mới bật đèn thì chính mình không bị hù chết mới là lạ. Mấy cái thi thể này chắc chắn đã ngâm ở đây phải gần ngàn năm rồi, bình thường đáng ra phải rã hết từ lâu rồi chứ, sao còn bập bềnh ở đây được, lẽ nào lũ này đã biến thành bánh tông hết cả rồi hay sao?

Bản thân chú lúc lặn xuống không hề chuẩn bị gì hết, vốn là không ngờ sẽ đụng phải tình huống hiểm ác thế này nên một cái móng lừa cũng chẳng đem theo, đi theo cái thằng chó Giải Liên Hoàn này đúng là thiệt thòi hết chỗ nói. Chú Ba đã sớm đã quên tất cả những chuyện này đều là tự chú chuốc lấy.

Lại nhìn Giải Liên Hoàn, mặt mũi hắn cũng kinh hoàng lắm, đủ thấy hành động xồng xộc tiếp cận vừa rồi cũng là do không nắm được tình hình thực sự. Xem ra lão nước ngoài kia cũng không nói cho hắn biết là sẽ đụng phải thứ gì.

Chú Ba nghĩ nhanh như điện, trong chớp mắt đã dự trù vài tình huống. Lúc bấy giờ, đám xác cổ từ đằng xa đang dần dần trôi tới gần, không nhanh không chậm, lụa trắng thong thả phất phơ. Nếu không phải do bốn phía tối đen cùng với những nét mặt nhạt nhòa không thấy rõ thì khung cảnh này thật cũng chẳng khác gì cảnh tiên nhân trong thiên cung đang đạp mây mà đi.

Chú Ba quan sát một lúc bỗng trong đầu lóe lên một tia sáng, chú đã hiểu ra được một điều gì đó.

Chú hạ thấp người, lặn xuống mấy mét, áp sát lại gần quan sát thật cẩn thận.

Dường như những cái xác ướp cổ chưa hoàn toàn thối rữa, mặt mũi tuy không rõ, nhưng ít nhất cũng có thể nhìn ra hình dạng con người. Mỗi cái xác lại bày ra một tư thế: có cái như đang bưng khay, có cái như đang thổi sáo, có cái lại như đánh trống, đánh đàn cầm đàn sắt, phong phú vô cùng, tuy rằng cứng đờ như thép, song vẻ đẹp trong từng tư thế thì tinh tế không gì sánh kịp. Chú Ba liền hiểu ra mình đang nhìn thấy cái gì.

Trên các bức bích họa của rất nhiều cổ mộ đều miêu tả một cảnh tượng như vậy: đó chính là cảnh chủ mộ thoát xác thăng thiên, trên trời thiên môn mở rộng, quần tiên tụ hội nghênh đón, mây lành uốn lượn, thần điểu tung bay, ánh sáng tưng bừng khắp nơi. Trong dạng bích họa này, phía trên bên cạnh hình ảnh chủ mộ đạp thang mây sẽ là một bức "Thiên sư vũ nhạc đồ", trong tranh ắt sẽ vẽ vô số những lão tiên chuyên tấu thiên nhạc, đàn trống hòa âm vang dội.

Nhưng chủ mộ nơi này hẳn là cảm thấy vẽ một bức "Thiên sư vũ nhạc đồ" chưa đã ghiền. Cảnh tượng mấy chục cái xác cổ tạo dáng này quả thực đã biến cảnh "thiên sư vũ nhạc, đàn trống hòa âm" thành sự thực, quả đúng là không thể tưởng tượng nổi.

Chú tức khắc hiểu ra vì sao Giải Liên Hoàn lại đi tìm mấy cái xác cổ này, bởi vì con đường có thiên sư vũ nhạc chính là con đường thoát xác thăng thiên của chủ mộ. Đi theo xác cổ là chắc chắn có thể tìm được vị trí của chủ nhân ngôi mộ.

Giải Liên Hoàn bên cạnh đã lấy lại tinh thần, ra hiệu chú Ba theo sau. Vì căng thẳng mà động tác của hắn méo mó hết cả.

Chú Ba nỗ lực trấn an nhịp tim của mình. Chú đã biết chắc chắn mình sẽ tiến vào một nơi bất trắc khó lường, vì vậy, trái lại, trong lúc này càng không được hoảng sợ. Địa điểm nơi này đã biết rồi, cổ mộ sẽ không mọc chân chạy mất, chuẩn bị như bây giờ rõ ràng là chưa chu đáo, lý do lý trấu để thuyết phục bản thân rút lui chú đã có đủ mười phần.

Giờ nghĩ lại, vị trí bọn họ đang đứng là một vùng vực sâu vô tận, mấy cái xác cổ kia trôi dạt đến chỗ nào, còn trôi bao lâu nữa, chẳng thể nào đoán biết được, nếu cứ đi bừa theo thì không biết sẽ lãng phí bao nhiêu thời gian, trong khi đó dưỡng khí không còn nhiều, quả thật là không sáng suốt.

Chú Ba đã tỉnh ngộ ra rồi, chú bèn ngăn cản Giải Liên Hoàn, ra hiệu cho hắn quay trở lại, đừng tiếp tục xuống nữa. Với tình hình hiện tại mà tiếp tục vào sâu hơn thì quá nguy hiểm, cái mạng già vẫn là quan trọng nhất.

Nhưng lúc này Giải Liên Hoàn lại đột nhiên hạ quyết tâm (hay lên cơn là bnh chung ca my cu m đàng điếm, có v như tôi cũng có vn đ tương t), không để chú Ba kịp ngăn cản đã xông thẳng về hướng đám nữ thi mà đuổi theo.

Chú Ba ở phía sau huơ đèn thăm dò ra hiệu vài cái, ý nhắc hắn chờ một lát đã, nhưng Giải Liên Hoàn lại không thèm để ý. Chú Ba thấy thế liền tự nhủ thôi xong rồi, xem ra thằng ranh này muốn vứt mình lại đây mà.

Nãy đã uy hiếp Giải Liên Hoàn để cùng lặn xuống đây, Giải Liên Hoàn chắc chắn tâm không cam tình không nguyện, bây giờ hẳn là sắp đến hồi hạ màn rồi, bèn dứt khoát chia tay luôn.

Dù rằng chẳng có tí cảm tình gì với tên này, nhưng dù gì Giải Liên Hoàn cũng là họ hàng thân thích, hơn nữa mình còn mang tiếng làm anh, trong vấn đề này, người Trung Quốc trước giờ vẫn luôn có gút mắc tâm lý về quan niệm máu mủ tình thâm cũng như chở che em nhỏ. Trong thời khắc này, chú Ba không thể mặc kệ Giải Liên Hoàn được, chỉ đành nén một bụng cồn cào lửa giận, vội vã đuổi theo.

(Nói ti đây thì đã nghe không biết bao nhiêu ln chú Ba đ cp ti s "bt đc dĩ" vi c "không còn cách nào" ca bn thân, lp đi lp li nhiu đến ni tôi còn thy được s bt thường. Dường như t trong tim thc, chú đã đc bit nhn mnh chuyn mình đi theo Gii Liên Hoàn ch là bt đc dĩ thôi ch thc lòng không mun thế đâu. Trên thc tế, vi tính cách ca chú Ba mà tôi biết, vào thi đim đó chú không phi là kiu người có th kim chế được tính hiếu kỳ ca bn thân như vy. Và đến đây, tôi có th cm thy được, tt nhiên, cái chết ca Gii Liên Hoàn sau này có l chú Ba là người chu trách nhim ln nht.

S dĩ tôi nghĩ vy là vì hi tôi còn nh, chú Ba đã tng trông nom tôi trong mt thi gian. Khi y li đúng lúc người ta gi chú xung đu, vì vy chú không có cách nào đ trông coi tôi được, thếng bèn ly dây thng buc tôi ven đường, đ tôi phơi nng ròng rã sut mt ngày tri, đến ni tôi suýt na thì cm nng. Sau chuyn đó chú đã hi l tôi rt nhiu kem que đ tôi ém nhm v này. Lúc by gi tôi không hiu chuyn nên cũng chng nói ra. Chính bi vì vic này cho nên tôi mi biết rõ thi tr tính tình chú khá là bt ho, kh năng t kim chế kém ci lm.

Nhưng nh ti dòng ch bng máu Gii Liên Hoàn đ li trên c m, tôi vn không tài nào tin được chú Ba li c ý hi hn. Cho nên khi nghe ti đó thì tôi không kìm được na, bt đu hi hp căng thng hn lên.)

Sự việc tiếp theo xảy ra cực kỳ chóng vánh.

Chú Ba vừa cân nhắc lượng dưỡng khí tiêu hao, vừa ra sức đuổi theo Giải Liên Hoàn. Chú càng nghĩ càng thấy không ổn, những ngôi cổ mộ dưới đáy biển tương tự như này chú đã từng đặt chân vào bao giờ đâu, thực sự là không thể nắm chắc được điều gì.

Thế nhưng, vào lúc này Giải Liên Hoàn đã trốn đâu mất. Hắn đi trước mà lẩn nhanh như trạch. Hơn nữa, lặn ngụp cũng không phải sở trường của chú Ba, nên hiển nhiên là chú đuổi không kịp hắn.

Đi theo ánh đèn trước mặt, cứ thế bơi thẳng về phía trước trong mịt mùng bóng tối được chừng mười phút, hàng tá những vật thể dập dềnh trôi xung quanh chú Ba từ lúc nào không hay. Chú nhìn thử thì thấy đó đều là những mảnh đổ nát từ kiến trúc bằng gỗ, nào là song cửa chạm trổ, xà nhà bằng gỗ, hàng ngàn hàng vạn, tất cả đều mục nát nghiêm trọng, bên trên bám đầy những con hà trắng toát.

Ngay sau đó, giữa đống thứ lặt vặt trôi dật dờ này, chú Ba thấy một cái bóng đen xiêu vẹo, tựa như một con quái thú khổng lồ.

Nhóm "xác cổ ca múa" đang bồng bềnh trong nước chợt trôi thẳng về hướng vật nọ, mà Giải Liên Hoàn ở đằng trước đã vượt qua bọn chúng, tiến đến sát cái bóng đen khổng lồ kia. Nương theo ánh đèn của hắn, chú Ba từng chút từng chút thấy rõ mồm ngang mũi dọc của thứ này.

Đó là mũi thuyền của một chiếc thuyền cổ đồ sộ bị mắc kẹt trong đá ngầm. Cái từ "đồ sộ" ở đây chỉ là dùng bậy, chú cảm thấy chẳng thể dùng từ ngữ nào miêu tả để hình dung nổi độ lớn của chiếc mũi thuyền mà chú được chứng kiến nữa.

Mũi con thuyền đắm trải dài suốt từ trong bãi đá san hô ra tận bên ngoài, phải đến hơn hai trăm mét. Xác thuyền đã hoàn toàn biến dạng, mũi thuyền méo mó phủ đầy bụi biển trắng xóa và những mảng san hô kết vảy. Nếu không phải vì hình thù con thuyền quá quái dị, có lẽ người ta sẽ tưởng nhầm đó là đầu lâu của một sinh vật biển khổng lồ.

Đám "xác cổ múa hát" kia dật dờ lượn về phía xác tàu, rồi biến mất rất nhanh trong làn nước biển mịt mùng. Chú Ba cùng Giải Liên Hoàn bám sát phía sau. Dưới ánh sáng chiếu rọi của hai cây đèn thăm dò, hình ảnh xác tàu hiện ra càng ngày càng rõ ràng.

Trên boong ở phía mũi tàu, chú Ba nhìn thấy một lầu gác bằng gỗ chạm trổ hoa văn bị kẹt một nửa trong đá. Có vẻ như đó chính là công trình chủ chốt của toàn bộ kiến trúc trên con thuyền gỗ khổng lồ này. Nhưng bây giờ nó đã ngả nghiêng xiêu vẹo, gần như sắp sụp đổ. Phía trên lầu gác có một cánh cửa đá cẩm thạch rạn nứt biến dạng đang mở rộng, hệt như một cái miệng há ngoác ra chờ bọn họ tự chui đầu vào lưới.

Chương 16. Thuyn chìm

Nếu mũi tàu kia và căn lầu gác không bị hư hại đến mức ấy thì cảnh tượng dưới nước này cũng phải hoành tráng như dưới thủy cung. Thế mà giờ đây, phủ kín xác tàu là tầng tầng cặn biển và những cục gỉ sét đùn lên do nước biển ăn mòn, tử khí nặng nề. Đặc biệt là căn lầu gác kia đã nghiêng đến bốn mươi độ, nhìn lên liền cảm thấy chỉ cần giơ chân đạp một cái là nó sẽ sụp đổ tan tành.

Dù vậy, hai người chú Ba lúc ấy kinh hãi đến mức suýt nghẹn thở. Một công trình như thế này, đừng nói là dưới biển, dù ở trên mặt đất cũng nào có mấy khi được chiêm ngưỡng. Rốt cục đây là mộ thuyền của ai, vì sao lại táng ở một nơi như thế này?

Lúc lại gần quan sát, chú Ba mới chú ý thấy cửa Ngọc môn khảm vào đá ngầm kia quả thực quá mức vĩ đại: cao bằng hai người, rộng bốn sải tay, chếch hai bên trái phải ngoài Ngọc môn, bên dưới lớp cặn biển cáu bẩn có thể thấp thoáng thấy hai bức phù điêu khắc nổi hình hai vị môn thần. Trên tay mỗi vị là một ông hổ, vẻ ngoài hung mãnh đáng sợ, chú Ba nhìn thì nhận ra bọn họ nhưng lại không gọi nổi tên. Phần lầu gác chìa ra khỏi đá ngầm có mái ngói đầu đao cong vút, những mảnh ngói đã rơi vỡ gần hết, chỉ còn trơ lại bộ khung mái.

Ngọc môn hé mở thành một khe hở rộng cỡ hai người, bên trong sâu thẳm vô cùng, không rõ thông đến tận đâu.

Những "xác cổ ca múa" đằng kia đã hoàn toàn chìm vào lòng vực sâu, không còn nhìn thấy được nữa.

Giải Liên Hoàn không dừng lại mà bơi thẳng vào bên trong Ngọc môn. Chú Ba cắn răng quẫy mạnh hai chân, đẩy nhanh tốc độ, cũng mau chóng bám đuôi theo vào.

Sau khi tiến vào đến là một hành lang rất dài, sáu bảy người gióng hàng ngang đi cũng lọt. Nhưng chỉ một chốc sau, không gian bốn phía lúc càng trở nên chật hẹp, ngược lại khiến ánh đèn càng thêm sáng tỏ hơn.

Cái cảm giác lạnh buốt sâu thẳm, sợ hãi và tuyệt vọng lúc ở bên ngoài kia, khi vào đến đây đã giảm bớt được một chút. Rốt cuộc cũng thấy những cảnh tượng mình quen thuộc, chú Ba hơi trấn tĩnh lại.

Lặn một mạch về phía trước theo hành lang, do thói quen nghề nghiệp nên chú Ba quan sát lướt qua cách bài trí ở bốn phía. Chú nhận ra rằng ở đây, kể cả dưới mặt đất, chỗ nào cũng chạm trổ những bức họa quần tiên tụ hội liên miên tiếp nối.

Cuối hành lang xuất hiện một đường cầu thang dẫn thẳng lên trên. Chú ba xoay mình, ngẩng mặt đẩy người lên. Bơi bơi một lúc, đột nhiên chú há hốc miệng kinh hãi, vì chú phát hiện đầu mình đã ló lên khỏi mặt nước rồi.

Lúc đó chú sợ đến giật nảy cả người, chuyện này thật khiến người ta hoảng hồn. Ngâm nước đã bốn mươi phút rồi, chú Ba căn bản đâu có ngờ trong cái cổ mộ này lại có không khí. Chú vội vàng xoay người nằm sấp xuống bậc cầu thang, dùng cả tứ chi mà bò lên phía trước.

Một người đã lặn dưới nước rất lâu, một khi lên bờ sẽ đột nhiên cảm thấy cơ thể nặng nề như khiêng một cục sắt, huống hồ sau lưng chú quả thực có vác một cục chì với bình oxi. Lên được rồi, chú Ba gần như đuối sức, phải nghiến răng thật chặt mới không bị ngã lộn cổ vào nước trở lại.

Lảo đảo đi lên khỏi cầu thang, chú thấy Giải Liên Hoàn đã cởi đồ lặn ra, vừa há miệng thở hổn hển vừa lấy đèn pin rọi vào khắp chung quanh căn hầm mộ.

Chú Ba thầm chửi, đúng là cái đồ đầu củ cải, lỡ mà gặp phải hơi ngạt(1) thì mày có mà ngỏm củ tỏi sớm. Cơ mà đến giờ còn chưa thấy hắn vật sang một bên chết, chứng tỏ không khí chắc hẳn là không có vấn đề gì. Vì thế chú Ba ngồi xuống bậc thang, cũng cởi bỏ đồ lặn, vừa thả lỏng cơ bắp vừa tháo đèn pin xuống soi khắp bốn phía.
(1) Trong hm m người ta dùng mt loi thuc nào đó có kh năng sinh ra mt loi khí rt nng, có th khiến nhp tim con người chm dn, lúc mi đu s không thy gì, nhưng càng v sau càng kit sc, sau đó try tim mà chết. Mun đi phó vi loi khí ngt này thì ch có cách s dng bình dưỡng khí, mt n phòng đc cũng vô dng bi không rõ thành phn khí này có nhng gì. Loi cm by này nguyên văn là 闷坑

Đoạn cuối bậc cầu thang nơi chú đang ngồi là một hầm mộ xây bằng gạch, điển hình cho phong cách thời Minh. Độ cao không lớn lắm, chỉ có thể cúi đầu mà đi. Bảo đỉnh trên chóp là hình vòm, độ dày đoán chừng cũng là thất phúc thất khoán (2). Trên đỉnh mộ, trong các kẽ gạch có màu sắt, cho thấy chúng đã được tưới sắt nóng chảy. Từng viên gạch được lát rất khéo, độ cong của bảo đỉnh không hề có bất cứ góc cạnh nào vị trí không chuẩn, cứ như đã được mài giũa vậy.
(2) Cu trúc đnh m đc trưng thi nhà Minh, có hình vòm, by trc dc by trc ngang, mười bn tng gch xanh, k gch đ st lng bt kín, đ dày ước chng gn 3m .

Giữa trung tâm mộ thất, trường minh đăng bằng sứ Thanh Hoa(3) xếp thành hàng đôi, nối thẳng vào sâu trong mộ. Nơi đó tối om om, chiếu đèn pin vào thì liền phát hiện ở chính giữa có đặt một cái vạc sắt màu đen cực lớn, chẳng biết có tác dụng gì nhưng nó chắn ngang tầm nhìn. (3) S Thanh Hoa là loi đ s men trng, trang trí ha tiết màu lam, có ngun gc t cui thi nhà Nguyên, rt tinh xo và cc kỳ quý hiếm.

Chú Ba vừa thấy liền có chút hãi hùng. Chú đã đổ đấu nhiều, biết rằng mộ thất này tuy lớn nhưng chỉ thuộc cỡ bình dân, cùng lắm là của một tay lắm tiền nhiều của. Vậy thì kỳ quái quá rồi! Cứ xem quy mô bên ngoài thì cổ mộ vĩ đại đến như thế, không có nỗ lực mười năm của mấy vạn phu phen lao dịch thì chỉ e không thể nào xây nổi. Nếu đã không phải là hoàng thân quốc thích, vậy vị dân đen con đỏ nào lại có thể xuất ra một khoản tiền lớn đến vậy đây?

Chú Ba cũng như tôi, lập tức nghĩ ngay đến tay cự phú thời ấy là Thẩm Vạn Tam(4).
(4) Thm Vn Tam là mt c phú nc tiếng sng vào cui thi Nguyên đu thi Minh. Ông đã giúp Chu Nguyên Chương xây dng mt phn ba thành Nam Kinh và còn khao thưởng binh sĩ, vì thế mà b Chu Nguyên Chương nghi k mun giết. Sau được Mã hoàng hu khuyên gii, Chu Nguyên Chương ch đày ông đi Vân Nam, tch biên gia sn, chém chết người nhà. H Thm t đó cũng ln bi.

Nói vậy thì, lần này đi theo Giải Liên Hoàn, hóa ra lại giúp chú vớ được một cái đấu béo bở. Đây chính là phúc phận tu mấy đời còn không được mà.

Trong lòng chú hưng phấn hẳn lên, lia đèn pin chiếu rọi bốn phía tường mộ.

Trên vách tường mộ thất có vẽ rất nhiều bích họa, nom tương đối hoành tráng. Chú Ba soi một vòng thì nhận ra bích họa được vẽ liên tục, gần như không có dấu hiệu đứt quãng, mà màu cũng không phai quá nhiều.

Ở đây hơi nước mù mịt, có thể bảo tồn được bích họa như vậy thực là hiếm có. Tuy nhiên, từ thời Bắc Tống đã có kỹ thuật bôi sáp, bôi dầu hoặc lòng trắng trứng lên trên để bảo vệ bích họa, công nghệ đã khá tiên tiến rồi. Nơi đây chắc hẳn cũng dùng kĩ thuật này, cho nên bây giờ nhìn kỹ lại thấy màu sắc trên các bức bích họa hơi vẩn đục.

Mấy thứ hình vẽ trên bích họa, chú Ba chả nhìn đến bao giờ, lúc này xem mấy bận cũng chẳng hiểu nội dung, chỉ cảm thấy nó cũng chả khác gì so với bích họa trong mộ cổ bình thường. Chú bèn lia ánh đèn trở lại, chiếu vào Giải Liên Hoàn ngồi một bên, định hỏi hắn vừa nãy uống lộn thuốc gì mà lại hâm như thế.

Giải Liên Hoàn đã mệt đến hết chịu nổi, vừa hiếu kỳ nhìn tứ phía, vừa thở hồng hộc như trâu, rõ ràng là ban nãy đã cố sống cố chết dùng hết sức lực. Chú Ba gọi một tiếng mà hắn cũng chẳng buồn nghe, căn mộ thất này đã lôi kéo toàn bộ lực chú ý của hắn.

Vốn là lúc nãy bị hắn bỏ mặc vứt lại, trong lòng chú Ba đã ngấm ngầm bốc hỏa rồi, nhưng đi vào cái chỗ thế này thì bùng nổ cũng không mấy thích hợp. Chú Ba liền nhịn xuống.

Cả hai chẳng nói chẳng rằng. Chú Ba nghỉ ngơi một chốc liền bình tĩnh lại hẳn, nhịp tim cũng dần ổn định. Chú bèn tiện tay bắt đầu chuẩn bị dụng cụ vào mộ, đồng thời cũng lưu ý, len lén kiểm tra bình oxi của mình với Giải Liên Hoàn.

Vừa xem là chú biết không xong rồi. Của chú thì còn ổn, nhưng dưỡng khí của Giải Liên Hoàn lượng tiêu hao quá lớn, đã hụt mất hơn phân nửa.

Thợ lặn càng là loại lão làng giàu kinh nghiệm thì thời gian có thể hoạt động dưới nước càng lâu. Mà người mới tập tọng xuống nước thường sẽ không khống chế được lượng khí hít vào, vừa thấy mình chìm trong nước liền hít lấy hít để bạt mạng, lượng khí tiêu hao so với thợ lành nghề phải nhiều hơn gần gấp đôi. Chú Ba tuy rằng trình độ lặn cũng không cao, nhưng vì thường xuyên để ý bình oxi cho nên tiết kiệm hơn Giải Liên Hoàn rất nhiều. Lúc này chỉ thoáng cái chú đã hiểu ra rằng, Giải Liên Hoàn đã không thể ra khỏi đây được nữa.

Có điều sau khi ngẫm nghĩ một chút, trái lại chú Ba cảm thấy mình chả có gì phải xoắn. Dù sao hắn cũng ra không nổi, còn mình tất nhiên lại phải vào một lần để dẫn hắn đi. Thế thì việc gì mà phải vội vã quay về cơ chứ.

Lúc này Giải Liên Hoàn đang tiến vào sâu trong mộ thất. Thế là chú cũng bắt đầu đi theo. Hai người đi tới cái vạc sắt không lồ trước mặt.

Chú Ba dừng lại, đến gần quan sát cái vạc sắt. Còn Giải Liên Hoàn thì cứ như không đếm xỉa gì đến nó, lập tức lách qua đi tiếp.

Cái vạc sắt nặng phải trên năm tấn. Bên trên chạm nổi rất nhiều minh văn (5), hẳn là một loại đồ dùng trong việc cúng tế. Chân vạc đã lún hẳn vào nền gạch xanh. Bên trong vạc trống rỗng, nhưng dưới đáy vạc lại lồi lên một cái phù điêu hình thân cá, chẳng biết dùng để làm gì.
(5) Ch "minh" đây nghĩa là khc. Minh văn là mt loi văn t khc trên đ vt thôi.

Chú Ba đang định nhìn kĩ minh văn trên vạc xem có chữ nào mình biết hay không, thì bỗng nghe Giải Liên Hoàn kêu thét một tiếng kinh hoàng.

Chú ngoảnh lại nhìn thì thấy hóa ra Giải Liên Hoàn đã chạy tới cuối mộ thất. Đèn pin của hắn đang rọi sáng một cái bệ đặt quan tài có ba bậc thềm, bên trên đặt một bộ quan quách màu đen cực lớn chạm trổ đầy hoa văn.

Bộ áo quan nọ cao gần đến ngực Giải Liên Hoàn, đen đến chói mắt vô cùng. Mặt ngoài quan tài tựa hồ được đánh một lớp quang dầu, sáng bóng một cách rất mất tự nhiên. Hoa văn mặt trên thưa thớt nhưng lại cực kì rõ nét, có thể thấy phần lớn văn tự là Điểu Triện(6). Mà Giải Liên Hoàn, có lẽ do thình lình bắt gặp cỗ quan quách này, cho nên có phần sợ sệt, thối lui về phía sau.
(6) Điu Trin - là mt loi ch Trin được cách điu thành hình chim giương cánh. Thc ra còn mt loi ch Điu Trin na, do Thương Hit đt ra theo du chân chym, mà giang h đn thi loi ch này có liên quan đến người Vit c, thc hư không biết thế nào.

Bộ quan quách nọ khí thế phi phàm, tràn ngập khí phách ngang ngược, chắc đó chính là quan tài của chủ mộ, chẳng biết là ai được táng bên trong.

Chú Ba đã từng thấy vô số quan tài, đừng nói là loại gỗ lim gỗ tạp, đến cả quan tài làm bằng gỗ trầm hương nguyên khối chú cũng đều hân hạnh được bái kiến rồi. Thế nhưng cái cỗ quan tài đen sì ở chỗ này đây, chú lại không nhìn ra được nó là chất liệu gì. Chú lập tức nổi lòng hiếu kỳ, vòng qua vạc sắt phăm phăm đi tới.

Đến sau lưng Giải Liên Hoàn rồi, chú liền thấy càng rõ ràng hơn. Bệ quan tài chính là được xây bằng gạch hoàng tương(7), xếp chồng tầng tầng lớp lớp thành hình đài sen tròn trịa. Sau bệ quan tài là một bức tường, mặt trên viết đầy chữ, hẳn là mộ chí ghi chép lại cuộc đời chủ nhân. Chỉ tội chú Ba nhìn lướt qua phía sau, chợt cảm thấy sống lưng lạnh ngắt, lực chú ý dồn cả vào cỗ quan tài đen nọ. Đồng thời, chú cũng hiểu ra vì sao Giải Liên Hoàn sợ tới mức thụt lùi lại như thế.
(7) Cái này mình tra hoài mà ch thy dùng trong my truyn đo m thôi nên không biết là có tn ti tht ko, nhưng theo 1 bài báo trên zhidao thì h nói có mt loi đá sa thch tên là đá hoàng tương, dân đa phương thi xưa thường dùng làm gch xây nhà . Gch hoàng tương có l là gch làm t loi đá này chăng.

Bởi vì phía trên cỗ quan tài đen to lớn này, lại có một "người" đang nằm.

Chương 17. Tiêu t quan

Đèn pin của chú Ba chiếu về phía quan tài, trong chớp mắt nhìn thấy cái "người" kia, toàn gân cốt toàn thân chú như rúm ró cả lại, da đầu tê dại, vô thức giật lùi về phía sau, lật con dao trong tay ra.

Không phải chú Ba nhát gan, mà là tình cảnh bây giờ quá sức quái đản. Trong một ngôi cổ mộ bí mật đến vậy, thế mà tự dưng lại có một "người" nằm chình ình trên quan tài, nếu thình lình trông thấy thì dù có là ai cũng phải run vài cái đã.

Bị hù một cú phát khiếp, Giải Liên Hoàn thụt lùi đến bên cạnh chú Ba. Chắc hẳn từ trước đến tận bây giờ hắn chưa bao giờ gặp phải chuyện gì lớn dưới đấu cho nên giờ mới khiếp hãi đến mức mặt biến sắc, lúc lùi lại cũng cuống quá, giẫm béng một phát vào chân chú Ba.

Chú Ba bị hắn giẫm phải, suýt nữa ngã dập mặt. Được cái, vừa đúng lúc đó chú nhìn theo ánh đèn pin, thấy rõ ràng cái thứ trên nóc quan tài. Hóa ra là do thần hồn nát thần tính, cái kẻ nằm trên quan tài thực ra chỉ là một tượng người đúc bằng đồng dính chặt trên nắp quan đen ngòm.

Tạo hình của tượng đồng chạm khắc hình người này rất quái lạ: tóc búi lưu vân, diện mạo được cường điệu hóa lên, trông có phần giống tượng bách hí thời Tần(1), tứ chi to béo ngắn ngủn giống như chân loài sâu bọ, mà quỷ dị nhất chính là cái miệng há ra kia, không ra cười không ra giận, mà chỉ là gắng sức há ngoác miệng ra, trông cứ như đang kêu gào thảm thiết.
(1) Tượng bách hí là tượng nhng người làm trò - gm người din kch hài và làm xiếc - bng đt nung, được chôn theo người chết, thường thy trong các lăng m thi Tn

Chú Ba nhìn thấy, trong lòng lập tức dâng lên một cảm giác quái đản. Người bình thường ai cũng đều xem trọng sự an lành tốt đẹp, mà cỗ quan tài sắt này cùng với tượng người đồng phối với nhau lại mang vẻ âm tà cổ quái không sao nói hết được, chẳng thích hợp một chút nào. Đây đúng là quan quách của chủ mộ ư?

Chú dùng đèn pin chiếu ra bốn phía. Mộ thất này vừa nhìn liền biết ngay không còn cỗ quan quách nào khác, hiển nhiên nếu nơi này là mộ thất chính thì đây chính là quan quách của chủ mộ chứ không nghi ngờ gì nữa.

Chú Ba rất tin tưởng trực giác của mình, trong lòng có phần bất an.

Để nhìn cho kỹ hơn, chú bèn đẩy Giải Liên Hoàn ra mà bước tới. Đến gần vừa nhìn một cái, lại càng thêm kinh ngạc, chú phát hiện cỗ quan tài đen ngòm khổng lồ kia lại là một cỗ quan tài sắt có chạm khắc hoa văn, còn tượng người đồng kia thì hình như là đồ trang trí sau này mới thêm vào. Điều càng kỳ lạ hơn là vị trí của miệng người đồng kia lại lõm vào theo nắp quan tài, khiến trên nắp quan xuất hiện một cái lỗ sâu hoắm, không biết có xuyên thấu qua nắp hay không.

Không phải chứ! Vừa nhìn thấy, chú Ba liền hít vào một hơi lạnh buốt. Chú lập tức điểm lại các loại mánh lới của mình một lát, trong lòng ôi chao một tiếng, tự nhủ rằng ôi thôi bỏ mẹ rồi.

Quan tài bịt kín bằng gang, thân quan có lỗ, vậy chứ cái quan tài này chẳng phải chính là "tiêu tử quan" trong bài giảng vốn liếng đáy hòm của các cụ còn gì?

"Tiêu tử quan" là cách gọi từ trước Giải Phóng trở đi, chứ không phải từ trăm đời truyền lại. Đây là chú Ba được nghe ông già nhà mình giảng giải cho. Nghe nói vào thời ấy, ở vùng Tương Tây có một đạo phiến quân, trong số thủ hạ có một nhóm người rất giỏi đổ đấu, kẻ cầm đầu tên là Trương Diêm Thành. Nghe nói người này là hậu duệ của Phát Khâu tướng quân bên Tào Tháo, thần thông quảng đại vô cùng. Năm ngón bàn tay trái của ông ta rất dài, dài không ai bì kịp mà lại gần như bằng chằn chặn, có thể vun đất bằng thành gò mả, nếm đất tìm mộ, công phu trộm mộ cực cao siêu. Khi đạo quân đó theo Tôn Trung Sơn Bắc phạt, Trương Diêm Thành tuân lệnh gom góp quân lương, dùng cách thức cổ xưa đi trộm mộ. Một đường thẳng lên phía Bắc không biết bao nhiêu cổ mộ bí ẩn đã bị ông ta quật dậy, danh tiếng lẫy lừng. Ngày đó Tương Tây có câu: "Diêm Thành đến, tiểu quỷ chuồn, Diêm Vương tới cũng phải tránh đường", một mặt cho thấy người này đã được thần thánh hóa, một mặt cũng cho thấy hoạt động trộm mộ của Trương Diêm Thành ngang ngược dữ dội đến thế nào.

Người này khi trộm mộ có một bộ chiêu thức thường dùng rất đặc biệt , ví dụ như nếu gặp phải quan quách lôi ra từ nơi đất huyết sát âm tà, thì sẽ lấy máu bò đổ lên áo quan, theo dõi phản ứng của quan quách. Nếu từ trong quan tài vang lên tiếng động khác thường, tất chủ quan tài có khả năng bị thi biến, binh lính sẽ đem quan tài ra khỏi cổ mộ, tàn bạo phơi nắng thật gắt rồi mới mở ra; còn nếu trong quan tài không có động thì sẽ xem xét mặt ngoài của quan tài. Trong phần lớn tình huống máu bò đều không ngưng lại mà chảy xuôi từ thân đến đáy áo quan, tức là không có chuyện gì, cứ việc khai quan không phải sợ.

Thế nhưng còn có một loại tình huống khá đặc biệt, đó là lúc đổ máu bò lên xong thì cứ như đổ vào cát, máu thấm thẳng vào thân quan tài. Đây là điềm đại hung còn xúi quẩy hơn cả thi biến, tức là thứ trong quan tài có khả năng không phải là xác người.

Trong quan tài không phải người, vậy thì là cái gì? Đáp án là, một cái xác không thể nói rõ ra được. Ở Trung Quốc, cái loại này được gọi chung là yêu quái.

Lúc này Trương Diêm Thành sẽ sai người đào hố ngay tại chỗ, đem cái quan tài yêu quái vứt xuống hố, bôi bùn nhão lên trên, sau lại nấu chảy binh khí, dùng thép nóng chảy niêm phong kín quan quách, chỉ để lại một cái lỗ thủng vừa đủ để nhét một bàn tay qua trên nóc quan. Đợi đến khi thép lỏng nguội lại, ông ta sẽ đưa một tay vào trong quan tài thám thính vật bên trong. Tương truyền đây chính là ngón nghề tổ truyền của Phát Khâu Trung Lang tướng nhà ông ta: tuyệt kỹ song chỉ thám động.ưa hai ngón vào l đ thăm dò)

Mà lúc thám động, ông ta sẽ sai người dùng một cây kéo tỳ bà dài ba thước kẹp cứng lấy cánh tay mình, sau đó đem "tay cầm" buộc vào đuôi ngựa, để nếu có gì bất ổn thì người bên cạnh có thể lập tức quất ngựa, ngựa hốt hoảng liền chạy, kéo động cái chốt, lưỡi kéo tỳ bà vô cùng sắc bén sẽ lập tức cắt nghiến, chịu mất cánh tay bảo mệnh.

Cỗ quan tài được xử lý như vậy, vì bên trên để lại một cái lỗ, cuối cùng thành ra na ná cái còi khổng lồ cho nên được người ta gọi là "Tiêu tử quan".
(tiêu t = cái còi)

Số lần Trương Diêm Thành dùng đến công phu song chỉ tham động này, nghe nói cả đời cũng chỉ có ba lần, cả ba lần đều giữ được tay mà trở ra. Một lần ăn đậm nhất là ông ta lấy được từ trong quan tài một quả nho bằng vàng có hai mươi bốn mùi hương, chỉ to bằng cái răng hàm, nghe nói là được giấu trong miệng xác chết. Trương Diêm Thành sau này theo quân Tưởng vào vùng chiến loạn, không rõ tung tích nữa. Có người nói ông ta đầu hàng Cách mạng, cuối cùng đã chết ở khu tập trung trong thời Cách Mạng Văn Hóa. Cũng có người nói ông ta chết ở Hoàng Cô Đồn(2). Tóm lại, đây là một nhân vật thần bí.
(2) Là mt đa đim nm phía Tây Thm Dương, nơi có chiếc cu đường st b quân Nht đt mìn đ ám sát th lĩnh quân phit vùng Đông Bc Trương Tác Lâm vào tháng Sáu năm 1928. Nói thêm luôn là khu vc Đông Bc này và h Trương nhà mình liên quan khá mt thiết vi nhau :")

Về truyền thuyết của ông ta, mấy ông già bà cả có hai kiểu nói. Một loại cho rằng ông ta thật sự có Phát Khâu tuyệt kỹ, song chỉ tham động là danh bất hư truyền. Một loại khác lại cho rằng Trương Diêm Thành là tên bịp bợm, lợi dụng sự mê tín sợ hãi của đám binh lính tầm thường, đem quan tài thường bảo là quan tài yêu quái, sau đó làm trò để nâng cao địa vị của mình.

Sự thật thế nào, chẳng ai biết được.

Ông nội tôi lại rất tin tưởng rằng Trương Diêm Thành chính là cao nhân, đó là vì hành động dùng thép chảy niêm phong quan tài yêu quái có một vài căn cứ không chính thống. Nghe nói trước thời Giải Phóng, khi sông Hoàng Hà đổi hướng, người ta đã từng phát hiện thấy trong nước bùn một cái quan quách bằng đồng thau tương tự như câu chuyện kể lại về Trương Diêm Thành. Trên nóc quan tài quả thực có một cái lỗ kích thước vừa bằng cánh tay, mỗi tội chẳng ai dám thò tay vào, có lớn gan lắm cũng chỉ dùng kìm gắp than, nhưng chỉ kẹp được ra từ bên trong rất nhiều bùn nhão vàng khè. Sau này, vào hồi kế hoạch "Đại nhảy vọt"(3), cái quan tài này đã bị ném thẳng vào lò luyện thép, không biết có chuyện xui xẻo nào hay không.
(3) Tc là kế hoch Năm năm ln th hai d trù kéo dài t 1958 đến 1963 nhm biến Trung Quc thành mt nước công nghip, vi kết qu là mt nn đói ln khiến 20 triu người chết theo con s thng kê chính thc - 42 triu theo con s thng kê không chính thc - và nhiu khu vc sinh thái rơi vào thm ha nghiêm trng, đin hình là khu vc Ni Mông hin gi vn càng ngày càng b sa mc hóa nng hơn. Mt trong nhng hng mc ch yếu ca kế hoch này là "toàn dân xây dng lò luyn thép", trưng dng toàn b đ dùng kim loi đ "sn xut" thép trong nhng "lò thép toàn dân" được dng khp nơi. Đương nhiên cái quan tài yêu quái trong truyn cũng cùng chung s phn.

Tuy nhiên, cái áo quan sắt này lại vô cùng tinh xảo, hoàn toàn khác với kiểu quan tài đổ thép chảy loạn xạ lên mà đúc. Thế nhưng cái lỗ sâu hoắm phía trên quan tài kia thì lại cực kỳ giống "tiêu tử quan" trong truyền thuyết.

Vậy thì kỳ quái ghê. Mộ thất Giải Liên Hoàn dẫn đường vào này, có lẽ là đúng là đất của chủ mộ, vì sao bộ quan quách chính trên bệ quan tài lại là cái dạng này? Lẽ nào chủ mộ kia không phải người, mà là yêu quái?

Chú Ba nghĩ tới đây liền cảm thấy đến xương sống cũng mọc gai luôn. Ngẫm lại thì cái mộ cổ này nằm tít tận vực sâu dưới đáy biển, lại thần bí quỷ dị như vậy, nói không chừng không phải mộ người thật mà có lẽ là của Hải Long Vương cũng nên. Lại nghĩ tới chuyện đây là do Cầu Đức Khảo bảo Giải Liên Hoàn làm, chú không khỏi chột dạ. Lẽ nào Cầu Đức Khảo biết rõ chủ nhân ngôi mộ này không phải người, cho nên mới bảo Giải Liên Hoàn chụp ảnh về nghiên cứu?

Có điều chú Ba lúc ấy còn trẻ trâu, cũng không coi lời người già nói là đúng lắm, mặc dù có phần chột dạ nhưng cũng không hề sợ sệt. Ngược lại lòng hiếu kỳ của chú đã nổi lên, thầm nhủ không biết có thứ gì trong này nhỉ?

Lúc này Giải Liên Hoàn cũng phát hiện là mình chỉ thần hồn nát thần tính, liền tiếp tục tiến tới, lòng còn ôm nỗi sợ mà xem xét cái áo quan sắt kia. Xem một vòng rồi hắn liền thử đẩy dịch nắp áo quan.

Chú Ba thấy chân hắn đều đang run rẩy thì đã biết hắn vẫn còn sợ, hành động đó có thể là làm màu trước mặt chú tý thôi, để vớt vát chút ít thể diện từ vụ bị hù lúc nãy.

Chú Ba cảm thấy buồn cười, bèn dùng đèn pin chiếu vào mặt hắn, bảo hằn đừng phí sức nữa. Nếu đây là "tiêu tử quan" thì rõ ràng người chế lại nó phải đồng tông cùng phái với Trương Diêm Thành, thứ bên trong áo quan sắt này tuyệt đối không tốt đẹp gì, hơn nữa cái quan tài sắt này từ lúc chế lại căn bản cũng đâu có định để cho kẻ khác mở ra, muốn lấy được đồ vật bên trong thì chỉ có nước làm như Trương Diêm Thành, đưa tay thò vào trong cái lỗ áo quan kia kìa.

Nói đoạn chú liền leo lên, dùng đèn pin soi vào cái lỗ bên trên quan tài xem có thấy được gì không.

Theo lỗ thủng nhìn xuống dưới, trong quan tài tối om om chẳng phân biệt được gì, có chiếu đèn pin dò xét cái lỗ cũng chẳng phải là biện pháp hay ho cho lắm. Ánh sáng phát ra đi được nửa đường đã chiếu không nổi nữa, chú chỉ cảm thấy dưới cổ họng cái "người đúc" này toát ra một luồng âm khí, nhìn một cái là cứng cả người, bảo thò tay xuống dưới mà sờ thì thật không phải việc người bình thường làm nổi.

Chú Ba nhớ tới tài liệu Giải Liên Hoàn lấy được từ chỗ lão người Tây, cũng cảm thấy phỏng đoán của bản thân là đúng: lão già ngoại quốc kia quen thuộc với kiến trúc ở đây như vậy, nhất định là vì bọn chúng trước kia từng sai người đến dò xét rồi. Thế nhưng cái người đã vào đây ấy vì sao còn chưa hoàn thành nhiệm vụ? Chú đoán kẻ đó cũng là tay cáo già trong nghề như bọn chú, đi vào rồi liền phát hiện ra bên trong lại có cỗ quan tài sắt như vậy thì đã biết ngay là quan tài sắt niêm phong thi hài không phải chuyện đùa, nên mới tạm thời bỏ qua. Vì vậy lão già ngoại quốc kia mới tìm một đứa gà mờ như Giải Liên Hoàn.

Nói vậy thì bọn chú cũng không thể đụng vào cái quan tài này, nếu không lại chẳng hóa ra thành tường chắn pháo cho Cầu Đức Khảo?

Có điều, nếu không đụng vào quan tài thì hình như lại có phần hèn quá. Chú và Giải Liên Hoàn cùng xuống đấu, Giải Liên Hoàn tay trắng trở lên còn dễ ăn nói, chứ chính chú cũng cứ vậy mà ra, thì bản thân mình vừa nói Giải Liên Hoàn một chặp như vậy cũng còn mặt mũi nào nữa? Huống chi, cái quan tài này nhìn cũng thật sự có chút mê người.

Chú Ba còn dùng dằng chưa quyết. Có điều rồi chú lại xoay qua ý khác, vẫn là lý trí chiếm thượng phong. Chú nhủ thầm rằng, theo kinh nghiệm của ông bà ông vải, quan tài này để cuối cùng hẵng đụng đến, còn hiện tại có lẽ chú nên nghía trước xem trong này có món nào tốt ở chỗ khác không. Quan tài hôm nay chú tạm thời không đụng vào thì cái cổ mộ này cũng chẳng mọc chân chạy đi được. Đến mai buổi tối bọn chú đem que cời lò với móng lừa đen xuống lần nữa là bảo đảm hơn rất nhiều so với bây giờ rồi, mà như vậy cũng không bị coi là nhát gan.

Nghĩ xong một cái chú liền thoải mái, lại bảo Giải Liên Hoàn cứ ở đó đợi, muốn chụp ảnh thì chụp bộ quan quách này đi, lão ngoại quốc kia sẽ hiểu được cho hắn, còn phần chú thì bắt đầu sục sạo chỗ hẻo lánh trong mộ thất, tìm những thứ đồ bồi táng khác.

Mộ thất này không có nhĩ thất, thông một thể từ đầu đến cuối, bố trí vô cùng cổ quái. Cổ nhân xem trọng chuyện lúc chết ngang với chuyện lúc sống. Cách bố trí của mộ thất thường thường đều mô phỏng theo cách bố trí chỗ ở của chủ mộ lúc sinh thời mà làm lại, nói cách khác là chủ ngôi mộ này khi còn sống chỗ ở cũng chả khác gì thế này, thật nghĩ không ra là cái kiểu tình hình nào. Bên trong cũng không có các loại đồ bồi táng thông thường, chỉ có mấy món đồ sứ khổng lồ vô giá. (Mấy món đồ này, đặt vào thời nay đại khái giá cả phải hơn ba mươi lăm triệu.)

Chú Ba đánh một vòng xem xét quanh mộ thất, chẳng thấy thứ gì có thể chuyển ra được, bèn đảo trở về. Sau bệ quan tài là vách tường, chú lách ra sau tường nhìn xem thì thấy còn một chút không gian, mỗi tội trên mặt đất cũng cứ trống hoác như thế.

Chú không khỏi chửi thầm một tiếng, thầm nhủ rằng cũng thật keo cú quá đi, sao lại chả có cái quái gì, lẽ nào cái quan tài kia lớn như vậy, lại còn bằng sắt nữa, là vì của nợ kia đem đồ bồi táng nhét hết vào bên trong rồi? Thế này là biến quan tài thành két sắt mà dùng hở?

Ngẫm lại thì đúng là có khả năng, chú không khỏi có hơi bực tức. Lúc này chú đột nhiên nhìn thấy mặt sau của bức tường có phù điêu được chạm trổ rất phức tạp.

Bích họa thì chẳng đáng tiền, nhưng đồ điêu khắc bằng đá trong cổ mộ đều có giá liên thành. Tuy nhiên bức tường này lớn quá, không có khả năng vận chuyển được ra ngoài. Thế nhưng lúc nhìn thấy nó, chú Ba vẫn nhịn không được phải để mắt đến.

Đèn pin chiếu tới cũng làm cho chú rất bất ngờ. Phù điêu được khắc sau tường không phải là hình vẽ thú mang điềm lành, phật cưỡi mây, hay là cảnh lễ lạt thành tiên, mà là mấy tòa cung điện, phi thiềm phượng đỉnh, điêu lương họa đống, được trạm trổ đặc biệt tinh tế, thậm chí đến cả mái ngói cũng là từng mảnh từng mảnh chạm nổi làm nên. Hơn nữa, mỗi toà cung điện bề ngoài đều không giống như nhau. Có tòa hai tầng, có tòa một tầng, tầm nhìn cũng có xa có gần, đan xen hấp dẫn. Chú Ba đếm thử một lát, thấy tổng cộng có bảy tòa, xếp theo thứ tự của Bắc Đẩu thất tinh. Trong không gian của mỗi tòa cung điện lại có thể thấy vô số đình đài lầu gác nửa ẩn nửa hiện, những chi tiết khác đều bị hình mây mù chạm trổ che khuất. Hậu cảnh của bức phù điêu này là một mỏm đá núi khổng lồ, hiển nhiên đây là một ngọn núi lớn, mà bố cục của tòa cung điện lại nằm ở phần dưới của cả bức phù điêu, ý tứ rất rõ ràng rằng đây là bảy tòa cung điện được xây trong một hang núi khổng lồ. Trong hang núi mây mù tràn ngập, khiến những thứ bên ngoài cung điện bị che khuất đến mông lung huyền ảo.

Bức phù điêu này có ý nghĩa gì? Chú Ba kinh ngạc một lát. Tất cả bích họa trong cổ mộ đều có ý nghĩa. Nếu không phải để làm biểu tượng, thì cũng là ca tụng công tích vĩ đại của chủ mộ lúc sinh thời. Bức phù điêu này đại diện cho tiên quốc trong thần thoại, hay là đang ca tụng chủ mộ gì đó đây?

Lúc đó chú Ba không biết chủ mộ chỗ này là Uông Tàng Hải, cho nên cũng không thể liên tưởng được. Có điều bức phù điêu tinh xảo này để lại cho chú ấn tượng đặc biệt sâu sắc. Chú bảo tới tôi rằng tính từ thời điểm đó thì bức tường này cũng đã là báu vật vô giá, nếu có thể mang ra ngoài thì chú sẽ đem nó đặt trong phòng ngủ ngắm nghía mỗi ngày.

Có điều bức tường này vô cùng vĩ đại, muốn chuyển ra ngoài ngay lúc đó là chuyện bất khả thi. Chú Ba tuy ngứa ngáy trong lòng nhưng cũng chẳng còn cách nào. Chú ngắm nghía kỹ lưỡng mấy lần, rồi lại muốn để Giải Liên Hoàn tới chụp ảnh thứ này, về sau cũng tiện chém gió với đám cùng nghề.

Đang định mở miệng thì chú bỗng ngửi thấy một thứ mùi kỳ quái, cứ như là có cái gì cháy khét vậy.

Chú sững ra một lát, tự hỏi đã có chuyện gì. Chỗ này là mộ thất, sao lại có thể có thứ mùi này xuất hiện chứ? Chú vội vã chạy ra khỏi bức tường, nhìn ra phía ngoài quan sát. Tiếp đó, chú liền thấy được một cảnh khiến mình phải nghẹn họng trân trối nhìn.

Chỉ thấy Giải Liên hoàn đang đứng trên cỗ áo quan sắt, chân tay luống cuống, mà trong miệng người đồng trên nóc quan tài sắt kia lại có khói đen cuồn cuộn bốc lên.

Chương 18. Nước tiu

Chú Ba tức thì toát mồ hôi lạnh đầm đìa. Sao tự dưng lại có khói bốc ra từ quan tài thế này?! Nhìn bộ dạng Giải Liên Hoàn, chú cũng cảm thấy không ổn. Lẽ nào thằng ranh này đã đụng chạm phải cái gì rồi?

Chú kéo phắt Giải Liên Hoàn xuống khỏi cỗ quan tài sắt, hỏi hắn mẹ kiếp chuyện gì xảy ra thế?

Giải Liên Hoàn ấp a ấp úng, múa may một loạt các động tác kỳ quặc, hiển nhiên là do quá căng thẳng nên không thốt lên được câu nào ra hồn, ậm ọe nửa ngày mới phun ra hai chữ: "Tôi... Tôi... lửa... lửa."

Chú Ba nhìn động tác của hắn, lại nhìn đến thứ hắn cầm trong tay: là một cái nắp ống giữ lửa(1) - ống giữ lửa là thứ động một cái đã cháy bùng, nên bình thường đều phải lấy thân sậy đậy kín lại - chú liền lập tức hiểu được chuyện gì đã xảy ra.

(1) nguyên văn là "ha chiết t".

Giải Liên Hoàn nhất định là đã tò mò về thứ bên trong quan tài, bèn thắp một ống giữ lửa lên, ném vào lỗ hổng trên quan tài, sau đó mới dán mắt nhòm vào trong lỗ.

Chiêu này gọi là "khoét vách khoắng sạch", là công phu bắt chước từ bên Bắc phái, cũng là mánh khóe thường dùng của thổ phu tử, đặc biệt với đám người mới khai quan, trước đi ba sau đi bốn(2), phải cẩn thận hơn cả cẩn thận. Thậm chí Mô Kim tặc bên Bắc phái có thể sử dụng chiêu "khoét vách khoắng sạch" này, chẳng cần vào cổ mộ vẫn có thể lấy đồ từ trong quan tài, cũng khá là cao tay. Tuy nhiên, chiêu này trong nghề đào cát bị coi là loại bàng môn tả đạo, trong thực tế sử dụng có rất nhiều hạn chế, hơn nữa mức độ nguy hiểm lại rất cao, cho nên bình thường những tay lão luyện không bao giờ dùng. Cách này chẳng biết Giải Liên Hoàn tự nghĩ ra, hay là học nửa vời từ mấy mánh khóe nọ kia nữa.
(2) "trước đi ba, sau đi bn" là mt câu tiếng lóng ca th phu t, ý là khi làm vic gì, trước khi làm phi suy xét ba ln, sau khi làm phi suy xét bn ln. Mt khi th phu t đã xung đu thì mi hành đng đu là đem tính mng ra đt cược, làm gì cũng phi cân nhc k lưỡng các trường hp và suy xét các bin pháp ng phó, phi tr thành mt thói quen thường xuyên suy xét như vy.

Chiêu "khoét vách khoắng sạch" có điểm mạo hiểm nhất, chính là khả năng làm cháy hỏng mất minh khí trong quan tài, nhất là khi thi thể đã khô đét, những mảnh tơ lụa khô quắt dính trên thi thể mục nát chỉ cần dính một chút tàn là đã bắt lửa. Một khi đã bốc cháy bùng bùng rồi thì mấy thứ như thẻ tre, da ngọc(3) chỉ một loáng là mất tiêu, có dập lửa ngay cũng không kịp nữa, vậy nên nó yêu cầu người thực hiện phải vô cùng cẩn thận mới được. Thế mà cái thằng Giải Liên Hoàn này chưa thèm suy nghĩ đã sử dụng ngay rồi.
(3) nguyên văn là "đu châu", dùng lp da bào thai dê con chưa sinh chế thành mt loi da lông, vì lông trên mnh da trông như nhng chui ht châu ngc, cho nên thi c còn có tên "trân châu mao", "châu mao", "tiu mao" hoc "mt hc châu".

Chú Ba chán nản chửi một tiếng, bụng bảo dạ rằng không trông nom để mắt đến thằng ranh này đúng là dại quá. Bộ quan quách nọ khiến chú thấy rất hứng thú. Chưa nói đến chuyện bên trong đảm bảo có hàng xịn, mà ngay cả thi thể nằm trong đó chú Ba cũng muốn nhìn cái thử xem. Nếu đồ trong quan tài mà bị đốt mất tiêu thì đúng là thật đáng tiếc. Chuyện này truyền ra ngoài thì có mà bị người ta cười cho thối mũi.

Nghĩ tới đó chú Ba thoắt cái đẩy phắt Giải Liên Hoàn ra, vọt tới bên cỗ quan tài, ra sức thổi phù phù vào cái lỗ trên quan tài. Chú tính thổi tắt lửa trong lỗ, nhưng ai dè vừa thổi một cái, khói đen lại càng cuồn cuộn bốc lên, túa ra ngoài theo cái lỗ hổng trên tấm áo quan, làm chú Ba bị sặc đến suýt phát ói. Chú vội vàng né mặt ra chỗ khác, lại lấy túi nước bên hông dội thẳng vào trong cái lỗ nọ.

Dọc đường tới đây bị gió biển thổi nên mau khát, nước trong túi đã chẳng còn lại bao nhiêu, dốc một tí là sạch nhẵn. Chừng ấy nước căn bản chẳng ăn thua.

"Cái thằng chó này!", chú Ba quýnh quá, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, quay sang Giải Liên Hoàn thì thấy túi nước bên hông hắn vẫn còn phồng phồng. Thấy hắn còn đứng đực ra đó, chú tức quá chửi ầm lên "Còn đần ra đó làm gì, mẹ kiếp mày mang cái túi nước qua đây cho tao!"

"Nước? À! Túi nước!" Giải Liên Hoàn lúc này mới kịp phản ứng, vội vàng cởi túi nước xuống. Chú Ba giật phắt lấy, lập tức dốc nửa túi vào. Chỉ thấy khói đen lắc lư tí tẹo, rồi chẳng những không áp được khói, mà lửa ở lỗ hổng còn bùng lên.

Chú Ba vừa nhìn liền thấy không đúng. Sao lại xảy ra tình trạng này?! Chú bèn ngửi túi nước một cái, không khỏi chửi um lên. Hóa ra bên trong là rượu trắng. Chú lại nhìn đến cỗ quan tài nọ. Lỗ hổng trên quan tài sắt cũng bắt đầu cháy rồi, khói đặc bốc lên mù mịt gần như tràn khắp mộ thất.

Lúc đó chú cũng đờ ra trong chốc lát, chẳng biết phải làm thế này bây giờ. Lửa trong quan tài sắt đã cháy phừng phừng, cũng không thể thò tay vào mà dập nữa rồi, vả lại thò tay vào nhỡ bắt phải cái gì, thì ngay đến cái mạng có khi cũng tiêu mất. Dùng nước thì, tí tẹo nước vốn vô tác dụng, nhưng nếu cứ để kệ thì cỗ quan tài này coi như đi tong. Cháy thế kia thì đến ngọc thạch cũng có thể bị nung cho nứt ra ấy chứ. Chủ nhân ngôi mộ này vừa nhìn đã biết là chẳng tầm thường, nếu đồ bị đốt mất, mà bên trong quan tài thực sự có dạ minh châu gì đó, thì chính bản thân mình chẳng phải cũng sẽ buồn bực đến chết sao?

(Thc ra lúc y ch cn ly th gì đó bt l hng trên quan tài li là được. Ch ti dưới tình thế cp bách, my người chú Ba không nghĩ ra mà thôi.)

Nhìn thế lửa càng lúc càng lớn, khói đen từ lỗ quan tài phì phì phun ra, chú với Giải Liên Hoàn lòng nóng như lửa đốt.

Đúng lúc chú Ba đã hết hi vọng trong lòng, bụng bảo dạ rằng ôi thôi cái đấu béo bở thành đấu than mất rồi, thì bỗng Giải Liên Hoàn bên kia lại làm ra một hành động khiến người ta phải trợn mắt há mồm. Hắn nhảy phóc lên nắp quan tài, khụy chân quỳ xuống, tháo thắt lưng rồi ra sức mà tè, tưới đẫm thứ nước canh vàng khè kia vào thẳng lỗ hổng trên quan tài. Trong chốc lát mùi nước tiểu khai khẳn trộn với mùi thây thối, mùi cháy khét cùng lúc bốc lên, khó ngửi khủng khiếp.

Đó hoàn toàn là cách nghĩ khi cuống quá hóa rồ. Vì hành động của hắn quá bất ngờ nên chú Ba căn bản không kịp cản lại. Đợi tới khi chú phản ứng kịp thì đã muộn mất rồi.

Chú Ba lập tức muốn xỉu. Xưa nay khi xuống đấu, Nam phái tuy phóng khoáng, thường quan niệm chết là hết, khai quan cũng có tính tùy hứng thích làm gì thì làm, nhưng dựa theo tính nguy hiểm của loại hoạt động này, trong thực tế, khi lên sàn diễn, Nam phái cũng phải cẩn thận mười phần. Loại chuyện tội lỗi như đái tồ tồ vào quan tài thế này, e rằng Giải Liên Hoàn là kẻ làm đầu tiên. Cũng may mà ông cụ nhà họ Giải không có ở hiện trường, bằng không chẳng tức chết mới là lạ.

Có điều bãi nước tiểu của Giải Liên Hoàn không ngờ lại có uy lực. Khói bên trong đã giảm hẳn xuống rất nhanh.

Tè xong, chính Giải Liên Hoàn cũng đờ cả ra, bỗng chốc ngã xệp lên quan tài.

Chú Ba đến nước mắt cũng sắp ứa ra rồi. Nhìn hình người kim loại trên hòm áo quan, lại vuốt vuốt mồ hôi lạnh trên đầu, chú chỉ thấy sống lưng lạnh toát, trong lòng nảy sinh vài phần dự cảm chẳng lành.

Con quỷ thổi còi trong "Tiêu tử quan" là vật đại hung, bữa này đã bị đốt một phen lại còn bị tưới một bãi nước tiểu vàng khè, lần này thì cứ gọi là khắc sâu mối hận. Đừng nói là bánh tông, dù có là người sống mà anh hết dùng lửa đốt miệng người ta, rồi lại dội cho đầy mồm nước tiểu, thì người ta chả liều mạng với anh ấy chứ.

Chú toát mồ hôi lạnh đầm đìa mà quan sát cỗ quan tài sắt nọ, suy xét xem sẽ phát sinh chuyện gì, liệu sẽ có thứ gì vọt ra từ lỗ hổng kia không?

Khói càng lúc càng giảm, dần dần hầu như không thấy nữa, xem ra quả thật đã dập được lửa rồi. Hai người đều nhìn như đóng đinh vào cỗ quan tài, mãi cho tới khi không còn thấy tý tẹo khói nào nữa.

Nhưng trong quan tài lại không có chút động tĩnh nào, cứ như chuyện vừa rồi trước giờ chưa từng phát sinh.

Chú Ba vuốt vuốt mồ hôi đầu, thở phào nhẹ nhõm, bụng bảo dạ rằng Hoàng Vương(4) phù hộ, xem ra Giải Liên Hoàn tốt số, quan tài này tuy là "tiêu tử quan" song cũng là một cỗ tử quan.
(4) Tham kho t Ma Thi Đèn, Hoàng Vương là đi vương ca lũ chn vàng, cũng được coi là "thn" bo h ca dân trm m.

Tử quan là quan tài mà bánh tông bên trong đã tiêu hết, chỉ còn lại một nắm xương mục nát không có sức uy hiếp. Phần lớn quan tài trong cổ mộ đều là tử quan, chứ nếu không e rằng cái nghề trộm mộ này đã chẳng có ai làm.

Tử quan thì không hề nguy hiểm. Mới nãy bị một mồi lửa đốt, lại còn tưới một trận nước tiểu, nếu không phải tử quan thì chắc chắn đã có chuyện rồi. Mà lâu như vậy vẫn không thấy động tĩnh, thì chắc cũng có thể xác định được.

Lại đợi thêm một lát, thấy tình hình vẫn thế, chú Ba rốt cuộc mới trút được gánh nặng. Chú lập tức ngã ngồi trên mặt đất. Giải Liên Hoàn thấy chú thả lỏng, biết rằng không việc gì nữa nên cũng ngồi phịch xuống, khóc òa lên.

Chú Ba lắc đầu cười khổ, nghĩ bụng rõ là phải tội. Thế quái nào mà mình lại xuống đất cùng với cái ngữ này cơ chứ, tổn thọ mất mấy năm rồi còn đâu, sau này thì xin cạch đến già. Cũng may không có nguy hiểm gì, bằng không lúc này thật sự chắc chắn sẽ bị hắn hại chết mất.

Nghĩ tới đó, chú Ba bỗng nhiên thoáng động tâm. Chú thầm nhủ rằng đã không có gì nguy hiểm, thì chi bằng chẳng cần chờ đến mai, ngay hôm nay đã có thể mò đồ rồi đi?

Chỗ này mỗi lần qua lại đều phải chịu mạo hiểm, vả lại suy cho cùng thì đi chung với đội của Văn Cẩm cũng không tiện cho lắm. Hơn nữa, xét vị trí của cái lỗ trên quan tài này, nếu là đằng đầu thì có thể mò được phần sọ cùng hai bên đầu, còn có ngực, nhất định cũng có thể mò đến. Nếu là đằng chân thì có lòng bàn chân là nơi đặt ngọc khí, cũng có thể có thứ ngon nghẻ, nhưng sẽ không nhiều lắm, một chuyến là có thể khuân hết ra. Hiện giờ nếu lấy đồ luôn thì ngày mai khỏi phải xuống nữa.

Tuy trong lỗ toàn nước tiểu, nhưng đã làm trộm mộ thì còn cái thứ mắc ói nào là chưa từng thấy đâu. Huống hồ còn là của chính mình, cho dù có bị ị vào, chú vẫn dám thò tay sục sạo như thường.

Một bên là lòng tham lam đặc thù của trộm mộ tặc, một bên lại là sự kinh sợ đối với cỗ quan tài kia. Trong lòng chú Ba lúc bấy giờ nổ ra một trận chiến không khoan nhượng. Thế nhưng, rất nhanh, lòng tham đã thắng thế. Lá gan không lớn thì đã chẳng bước vào được cái nghề này. Chú Ba tự bảo mình rằng, cứ đặt mẹ cược một phen đi rồi tính.

Nghĩ thế, chú bèn đứng dậy, leo lên trên quan tài, vái bộ quan quách mấy vái, xắn tay áo lên, nghiến răng nhắm mắt, trước hết xọc tay xuống lỗ hổng trên quan tài nọ, rồi lần mò xuống dưới.

Thế nhưng vừa thò tay được một tấc vào vào lỗ quan tài, nhiệt độ bên trong truyền lên liền làm chú Ba hối hận. Năm đó huyền thoại Trương Diêm Thành ấy, nào có phải dựa vào vận may đâu, mà người ta dựa vào bản lĩnh thực sự của mấy đầu ngón tay đấy chứ. Chuyện này đúng là liều bỏ mẹ đi được.

Chú những muốn rút ra. Thế nhưng khi ngoảnh lại, chỉ thấy Giải Liên Hoàn ở dưới trợn mắt há mồm nhìn chú. Lúc này mà rụt lại thì mất mặt chết, nên chú đành phải cố kiết mà tiếp tục mò.

Dùng một tay dò huyệt có một cảm giác không sao tả rõ được. Tay lần mò thò vào được càng sâu, tim chú lại càng đập gấp gáp, rồi thì ngón tay cũng càng tê dại đi. Tuy ngoài mặt chú không hề tỏ vẻ gì, nhưng kì thực khi tay cuối cùng cũng đụng tới thi thể, sau lưng chú đã ướt đầm đìa, ngón tay thò vào bên trong run rẩy đến mất hết không còn chút sức lực.

Cái cảm giác này có thể tưởng tượng ra được, tôi nghe chuyện mà còn cảm thấy cả người run bắn. Cứ coi như kiếm đại một cái hòm bình thường, đục một lỗ rồi bắt người ta thò tay vào, thì cũng đã tạo ra một loại cảm giác sợ hãi hoang mang, huống chi còn là một cái quan tài.

Lúc đã đụng tới thi thể, ấn ấn vài cái thì chú Ba phát hiện thấy ngón tay dính nhớp nháp, da đầu lại càng râm ran run rẩy. Cảm giác thế này chắc hẳn phải là miệng xác cổ rồi. Sờ soạng vài cái, chú chỉ có cảm giác hẳn đây phải là một cỗ thi thể thâm đen phù thũng, miệng há hốc một cách quái dị, tư thế cơ hồ giống y hêt người đồng trên nắp quan tài, có điều sờ thì không rõ được chi tiết. Mà điều khiến chú bất an vô cùng là, khi đụng tới ống giữ lửa đang dính chắc vào miệng xác ướp thì nó vẫn còn nóng rẫy.

Chú thầm nhủ thật đúng là tội vạ, ngay sau đó liền cắn răng di ngón tay vào trong tiếp tục thăm dò. Trước tiên chú đẩy ống giữ lửa sang một bên, sau đó đụng trúng một thứ gì đó cứng cứng có hình tròn.

Ôi chao, đích thị là bánh ngọc tròn áp đầu lưỡi. Chú Ba trong lòng mừng khấp khởi , bèn nói: "Có rồi, thứ này thiêu không hỏng!" Chú liền nắm ngay lấy, những muốn gắp vật nọ từ trong cái lỗ ra.

Thế nhưng mới móc lên được một tí, chú Ba liền cảm thấy không ổn. Bánh ngọc tròn này nặng kinh người, mới nhấc được một nửa đã không động đậy nữa. Cố kéo mạnh thêm, chú liền cảm thấy cả cỗ quan tài bằng sắt hơi rung lên một chút, rồi lại nghe thấy một tràng những tiếng "kèn kẹt kèn kẹt" nặng nề của kim loại hoen rỉ truyền từ dưới lòng bàn chân lên.

Chú Ba mặt mũi tức thì biến sắc trầm trọng, tự nhủ ôi thôi hỏng bét, đó là cơ quan!

Chương 19. Cơ quan

Trong nháy mắt, tiếng cơ quan xoay chuyển liên tiếp vọng lên từ dưới đáy quan tài. Chú Ba còn chưa kịp phản ứng thì đã nghe "rầm" một tiếng rất to ở nơi tối om mà bọn họ vừa lên khỏi mặt nước ban nãy, tựa như có thứ gì rất nặng rơi vào cái vạc sắt khổng lồ mà hai người bắt gặp lúc vừa bước vào mộ. Trong không gian bít bùng, tiếng vang dội đi dội lại khiến ruột gan chú chấn động đến rúm ró.

Chú Ba vội vàng rút tay ra, bất chấp bẩn thỉu chùi đại lên người một cái, rồi lia đèn pin rọi về phía vạc sắt, tự nhủ rằng thôi hỏng bét rồi.

Dưới này không thể so với trên mặt đất, nếu là đá lăn đè lấp cửa mộ, hoặc cát vàng đỉnh mộ trút xuống, thì vẫn còn có thời gian để đào ngược lối vào động mà trở ra. Chứ chỗ này ở trong rạn đá san hô dưới đáy biển, một khi có bất kì cơ quan gì vây khốn thì bọn họ chỉ có chết chứ không còn đường sống, thôi thì khỏi cần nghĩ cách gì nữa, cứ chọn quách một nơi phơi xác còn hơn.

Giải Liên Hoàn ở đằng kia cũng sợ giật bắn mình. Chấn động truyền ra từ phía cỗ quan tài, cho nên hắn tưởng cái quan tài này sắp có dị biến gì, thoắt cái đã chuồn rõ xa.

Tuy chú Ba đã hận Giải Liên Hoàn thấu xương, chỉ tiếc không thể một đao xẻ thịt hắn, nhưng nói cho cùng hắn vẫn là họ hàng thân thích nhà mình, không thể mặc kệ hắn chạy lung tung được. Chú liền quát Giải Liên Hoàn đứng lại, bảo hắn không được nhúc nhích, rồi chú nhảy xuống khỏi cỗ quan tài sắt, dè dặt nhích từng bước tới gần cái vạc sắt. Chú muốn nhìn thử xem rốt cuộc cơ quan này đã động đến cái gì, thứ vừa rơi vào vạc sắt là cái chi.

Cái vạc sắt cách chú chưa đầy hai chục bước, chẳng mấy chốc mà chú đã tới sát ngay cạnh vạc. Lúc này đã không còn nghe thấy tiếng cơ quan vận hành nữa, có vẻ như cơ quan đã ngừng hoạt động rồi. Chú Ba nuốt nước bọt, rọi đèn lên phía trên vạc sắt thì phát hiện đỉnh mộ thất ở phía trên vạc có một cánh cửa lật. Thứ này chúng tôi gọi là "quỷ đạp không". Cơ quan trên đỉnh mộ dạng như thế này thường được đặt vô số đá tảng thật nặng bên trong. Khi cơ quan phát động, đá nặng từ trên đỉnh sẽ rầm rập rơi xuống, trong chốc lát là nện cho người ta nhừ tử nát bét thành thịt xay. Nhưng giờ đây thứ rơi xuống từ trên trần lại không phải đá tảng đá hộc gì, mà là hai sợi xích sắt khổng lồ buông thõng xuống tận bên trong vạc sắt.

Chú Ba thấy vậy liền sửng sốt, tự hỏi đây là cơ quan kiểu quái gì thế này? Nó chẳng có vẻ giống loại bẫy rập phòng trộm mộ một tí nào. Chốt khởi động cơ quan thì nằm tít tận đáy quan tài, vật nặng rơi thì lại rơi vào trong vạc sắt, có nện trúng người đâu mà chết. Vậy thì thứ vừa rớt xuống là cái khỉ gì?

Nghĩ tới những điều trái khoáy lạ thường trong mộ thất này, chú Ba càng thêm nghi hoặc. Chú lấy lại bình tĩnh, móc dao găm ra kẹp giữa hai hàm răng, nhoài người bò lên trên vạc sắt, cực kì cẩn thận nhìn xuống theo hướng sợi dây xích.

Vừa nhìn xuống, chú liền thấy ngay thứ gì đó rất kỳ quặc nằm dưới đáy vạc sắt. Xem kỹ thì mới phát hiện ra đó là hai cái khóa tỳ bà đen thui như vuốt quỷ, xích chặt vào một bộ hài cốt. Tứ chi xoắn xuýt một chỗ cùng xiềng xích, chân tay đều bị chặt đứt, thoạt trông cứ như một nô lệ tuẫn táng.

Bộ hài cốt cực kỳ cao lớn, thân mặc lân giáp(*) bằng đồng đã rách nát tả tơi, hộp sọ rất kì dị. Chỗ bị khóa tỳ bà xích chặt chính là xương quai xanh của hài cốt, một khúc xương quai xanh đã gãy, khúc còn lại vẫn bị xích rất chắc chắn.
(*) Lân giáp là loi giáp kết bng nhng mnh kim loi xếp so le, trông ging lp vy cá hoc vy bò sát nên mi gi là lân giáp)

Chú Ba cực kì kinh ngạc, thầm suy tính. Dùng khóa tỳ bà xỏ vào xương quai xanh là một loại cực hình thời cổ đại, dùng để hạn chế tự do của phạm nhân. Thời cổ đại, kẻ nào võ công cao cường, không thể kìm kẹp được bằng xiềng xích thông thường, thì phải khóa chặt lại bằng cách xích vào xương quai xanh. Xương quai xanh sở dĩ còn gọi là "tỏa cốt"(**) cũng vì nguyên nhân đó.
(**) Xương quai xanh tiếng Trung gi là xương tỳ bà, vì hình dng nó nhang nhác ging cái đàn tỳ bà. Ch ta trong đây có nghĩa là khóa.

Hài cốt đã mục rữa hết mức rồi. Xương xẩu rạn nứt thành hình vảy chi chít, dường như chỉ cần chạm vào một cái là vỡ vụn. Chú Ba cẩn thận soi đèn vào thì thấy hộp sọ của bộ hài cốt này khác hẳn người thường. Chưa nói đến kích cỡ hộp sọ, chỉ nội so chiều dài thôi đã thấy gấp đôi người thường. Chú Ba không biết nói thế nào để hình dung, nói thẳng ra là cảm thấy trông nó giống quả chuối tiêu to tướng.

Trong ngôi mộ cổ này lại nhốt một bộ xương người quái dị như vậy, thật là ly kỳ cực độ. Xem kết cấu của mộ thất thì hẳn bộ hài cốt đã bị treo trên đỉnh mộ từ lâu, chỉ cần chạm phải cơ quan trong quan tài một cái là bộ hài cốt này sẽ thình lình rớt xuống. Quả thật là rất tài tình.

Thế nhưng, đây tóm lại là để làm cái gì? Nếu bảo rằng đó là cơ quan chống trộm, thì tuy có đáng sợ đấy, song chẳng hề có lực sát thương. Kẻ có thể đi vào mộ thất dưới đáy biển, có nhẽ nào lại bị một bộ xương người dọa chạy mất chứ? Mà bộ hài cốt được treo này rõ ràng không phải là một cái xác bình thường. Vậy rốt cuộc nó là cái quái gì?

Sức tưởng tượng của chú Ba quá mức nghèo nàn, tâm trí lại bị trói buộc trong cơn hốt hoảng nên càng không tìm ra manh mối. Được cái đầu óc chú xoay xở rất nhanh, trong nháy mắt đã nghĩ đến một việc: bộ hài cốt đáng sợ này có khi nào chính là bánh tông đã bị thi biến? Sợi xích sắt kia to bằng miệng bát ăn cơm, lại tròng theo cả khóa tỳ bà, hiển nhiên là để khóa thứ gì đó khi còn sống có sức lực vô cùng mạnh mẽ. Từ xưa đã nghe nói, ở Miêu Cương có người nuôi được tiểu quỷ với quỷ nhập tràng trong vùng đất âm. Lẽ nào chủ mộ nơi này cũng dùng khóa tỳ bà xích một cái xác đã thi biến làm chó giữ cửa chăng?

Hài cốt đã mục rữa hết, cho dù có là bánh tông thật thì cũng sắp tan thành tro bụi, còn dọa được ai? Chú Ba nổi trí tò mò, mà lá gan cũng xem như lớn. Thế là, để quan sát kĩ càng hơn, chú lại bò lên trên vạc sắt, trong lúc đó còn gọi Giải Liên Hoàn qua đây chụp ảnh luôn cả thứ này để lúc về chú còn có chỗ tham khảo.

Giải Liên Hoàn lại không thấy đáp lời. Chú Ba dĩ nhiên cũng không thèm để ý, leo tọt vào trong vạc. Chẳng ngờ bên trong vạc sắt phủ một lớp tro bụi dọc từ trên đỉnh xuống, bàn chân ướt nhẹp của chú đạp vào, thế là trượt oạch một cái, cả người lộn một vòng trên thành vạc, rồi ngã dúi dụi vào trong đống xương cốt.

Đống xương kia vốn đã xốp giòn, lúc nãy rớt xuống lại lỏng lẻo sẵn, nay va chạm như vậy lại càng vụn tơi ra như bột phấn. Chú Ba quýnh quáng lóng ngóng chân tay ngồi thẳng dậy, cầm chắc đèn pin soi lại thì thấy mình đã ngã vào trong lòng bộ hài cốt. Cái đầu lâu dị dạng thì lủng lẳng treo bên cạnh đầu chú, bị chú xô vào vách vạc liền vỡ vụn, lộ ra khoang sọ bên trong. Một đám thứ gì trông như tổ ong bám dính vào trong khoang sọ, phía trên có từng viên từng viên trứng côn trùng trông y hệt hạt trân châu phủ kín cả bề mặt.

Chương 20. Trùng não

Những cái trứng côn trùng này dính cả vào bên trong hộp sọ. Chúng có màu xám, từng viên từng viên chi chít, nhìn kỹ thì thấy mắc ói cực kỳ, trông cứ như trứng ong lúc nhúc trong một cái tổ ong vậy.

Người thường sao bì được với chú Ba. Lúc đó chú không hề sợ hãi chút nào, mà trái lại hứng thú càng nổi lên. Chú liền nhoài người lên quan sát cho tỉ mỉ.

Dưới ánh đèn pin chiếu xuống, đám trứng sâu phô ra vẻ nửa trong suốt mơ hồ. Chú Ba lấy dao găm gõ gõ thì thấy cứng như vỏ giáp xác, có vẻ chúng đã khô queo.

Đây là cái gì nhỉ? Chú Ba tự hỏi. Trong hộp sọ này lại có nhiều trứng sâu như vậy, lẽ nào đó là ký sinh trùng? Trong xác cổ có ký sinh trùng, vậy cũng hợp lý, trong xác cổ Lâu Lan cũng thường xuyên phát hiện ký sinh trùng. Có điều bình thường ký sinh trùng đều sống bám trong lục phủ ngũ tạng, chứ sao lại xuất hiện trứng trùng trong hộp sọ? Đã thế lại còn đẻ lúc nhúc đầy ra tr0ng ấy. Đây là thứ côn trùng quái quỷ gì mà ghê gớm quá vậy...

(*)Lâu Lan là mt quc gia c, tn ti vào thế k th II Trước Công nguyên năm vùng Đông Bc sa mc La B vùng Tân Cương, và nm trên con đường tơ la, có lãnh th phn ln bao quanh bi sa mc. Xác c Lâu Lan là mt tp hp xác ướp t nhiên ca hơn hai trăm người được phát hin trong khu vc lòng cho Tarim, trong đó có "người đp Lâu Lan", mt trong s 10 xác ướp hoàn ho nht thế gii. 

Dạo đó, kiến thức khoa học của chú Ba cực kỳ què cụt. Còn về mảng văn hóa thì phần lớn cũng chỉ võ vẽ vài ba ngón học với Văn Cẩm cho có tý sĩ diện. Nói đến sâu bọ hay côn trùng thời cổ đại, trong đầu chú Ba y như rằng sẽ hiện ra hình ảnh các loại sâu róm. Chú ngẫm nghĩ, rồi suy đoán rằng, khi bị loại sâu này bám vào thì chắc vật chủ phải chết rồi, chứ không một đám sâu lúc nhúc sống trong não thế này có mà đau đến ngủm cù đèo mất, còn ký sinh cái gì nữa. Chắc là trứng của bọ ăn xác thối đây mà.

(Trần Văn Cẩm mà chú Ba ngày nhớ đêm thương đây nè ="))))))

Đây chính là một phát hiện lớn, chú Ba thầm nhủ như thế. Chú nhớ lại lời Văn Cẩm giảng giải cho mình về việc phát hiện những giá trị phi vật thể đối với khảo cổ học. Trong khảo cổ, nếu tìm thấy thư tịch cổ, hoặc dấu vết mộ táng hay phong tục tập quán chưa được những người đi trước phát hiện ra, thì đều thuộc về phát hiện vĩ đại cả. Cái kiểu phát hiện này đối với chú Ba chỉ đáng bỏ đi chả khác gì phân chó, nhưng với toàn bộ giới khảo cổ mà nói thì nó đồng nghĩa với thanh danh lừng lẫy và địa vị cực cao, là thứ giúp họ lưu danh vào sử sách.

Đối với những thứ này, chú chẳng có một chút hứng thú nào. Mỗi tội hồi đó chú còn đang sa chân vào mối tình nồng cháy, động một tý là tơ tưởng Văn Cẩm. Chú tự nhủ, nếu mang thứ này về cho Văn Cẩm, cô nàng này thế nào cũng sẽ tìm ra chỗ hữu dụng. Mà lỡ nó có không giá trị, thì bỏ lại đây cũng có để làm gì đâu.

Nghĩ thế, chú bèn móc một cái túi da trâu ra. Cái túi này vốn dùng khi lặn xuống nước mò đồ, dưới đáy có lỗ bịt lại được, khi nào ra khỏi nước thì nước trong túi sẽ tự động chảy hết ra. Chú Ba bịt lỗ dưới đáy túi lại, rồi thì vặt cái hộp sọ xuống, còn lèn thêm mấy mảnh xương vỡ cho túi căng phồng, sau đó mới xốc lên lưng.

Xong việc, chú bò ra khỏi vạc sắt đi tìm Giải Liên Hoàn. Bấy giờ, sau khi trải qua hai lần khiếp vía chú đã đủ dựng tóc gáy rồi, lòng tham cũng bị dọa cho biến sạch. Cỗ quan tài nọ chú không dám đụng vào, ngôi mộ thất này lại tà môn chết mẹ, chú không muốn chần chờ thêm một giây nào nữa. Nếu Giải Liên Hoàn đã chụp xong các thứ rồi thì bọn họ phải rút khỏi đây ngay lập tức thôi.

Lúc đó chú đã quên béng mất rằng bình dưỡng khí của Giải Liên Hoàn không còn đủ oxy nữa, chứ nếu mà còn nhớ thì hẳn chú đã biết rằng lúc này ra được đến bên ngoài đã không còn là chuyện dễ dàng.

Nhưng đợi tới khi chú bò ra khỏi vạc sắt, trở lại trước quan tài đúc tượng đồng thì chú chợt nhận ra một điểm bất thường. Thứ nhất, chú không thấy Giải Liên Hoàn đâu nữa. Hắn không còn đứng ở chỗ cũ đã đành, mà dùng đèn pin chiếu một vòng cũng vẫn không tìm thấy. Thứ hai, đèn pin của Giải Liên Hoàn rơi trên mặt đất, rọi vào một bức bích họa bên cạnh, đang chớp tắt lập lòe.

Chú Ba chỉ sửng sốt chưa đến một giây, rồi mồ hôi lạnh túa ra, bởi vì cảnh tượng kiểu này chú từng thấy nhiều lần lắm rồi. Ở trong cổ mộ, hễ có người gặp chuyện chẳng lành thì đảm bảo là đèn pin sẽ rơi xuống đất. Hồi trước đi gắp Lạt Ma đã có nhiều người gặp hạn, cho nên vừa nhác thấy chiếc đèn pin chỏng chơ trên đất là chú lập tức căng thẳng liền.

Lẽ nào trong lúc mình đang rúc trong vạc, Giải Liên Hoàn đã xảy ra chuyện gì, hay đã động đến cơ quan nào đó rồi?

Lúc nãy chú có nghe thấy âm thanh nào đâu. Nhưng có điều là khi đang chui trong vạc, thì quả thật chú cũng chẳng để ý xem bên ngoài có chuyện gì xảy ra không.

Cái gì gọi là kinh nghiệm? Thế này chính là kinh nghiệm đấy. Nếu đó là tôi, thì chắc chắn tôi sẽ chạy tới nhặt đèn pin, sau đó í ới gọi vài tiếng. Nhưng chú Ba thì xác định là đã có chuyện rồi, tuy còn chưa biết đó là chuyện gì. Chú lại rút con dao găm, cả người tiến vào trạng thái sẵn sàng, vừa đi về hướng vạc sắt vừa tìm xem Giải Liên Hoàn ở chỗ nào.

Thời gian chú ở trong vạc sắt không dài, Giải Liên Hoàn nếu có trúng chiêu thì cũng chỉ có thể ngã loanh quanh gần vạc sắt.

Sau khi dè dặt từng ly nhưng vẫn nhanh chóng lượn một vòng quanh chiếc vạc, quả nhiên chú thình lình thấy Giải Liên Hoàn ngã sóng xoài sau cỗ quan tài sắt, người cuộn lại thu lu, không hề động đậy. Chú Ba bèn rọi đèn pin vào mặt hắn, chẳng thấy hắn phản ứng gì, lại lia một vòng, cũng chẳng phát hiện xung quanh có thứ nào kỳ dị.

Lạ thật, hình như không có dấu hiệu gì là động tới cơ quan, làm sao mà hắn lại bị ngã? Chú Ba có phần ngạc nhiên. Nhìn ngó xung quanh, thấy quả thực không có động tĩnh gì, chú liền bước nhanh lại gần, đỡ Giải Liên Hoàn dậy.

Giải Liên Hoàn đã mất tri giác, đờ ra như xác chết, cơ thể co quắp hết cả lại. Chú Ba dựng cổ hắn dậy, phát hiện hắn chưa chết, lại sờ thử mấy chỗ hiểm thì thấy sau ót hắn bỏng rát, giơ tay lên xem thì thấy be bét máu.

Đếu mọe! Trong chốc lát, chú Ba tối tăm mặt mũi. Sao lại có thể như thế? Sao thằng ôn này trông cứ y như bị người ta đập cho ngất xỉu thế này.

Nhưng đây đang ở trong cổ mộ cơ mà. Làm gì có cơ quan cổ mộ nào lại được thiết kế để đập người ta ngất xỉu đâu. Còn bánh tông cũng không thể nào tốt bụng đến mức chỉ đập cho anh xỉu. Có thể đánh ngất người ta, chỉ có thể là một người khác mà thôi.

Nghĩ đến đó, chú Ba bỗng cảm thấy ớn lạnh tột cùng. Chú vội vàng quay đầu nhìn khắp bốn phía tối om, tự nhủ, không thể nào, chẳng lẽ ở đây còn có kẻ nào khác?

Chương 21. K th ba trong bóng ti

*****

Cậu ấm Giải Liên Hoàn - ảnh từ weibo của Nam Phái Tam Thúc ="))))))

Chú Ba vừa nghĩ tới điểm này, tuy còn không dám tin nhưng mồ hôi lạnh vẫn đầm đìa khắp người. Chú buông Giải Liên Hoàn ra, vội vàng đảo mắt quan sát bốn phía một lượt.

Nhìn ngó một lúc mà vẫn không thấy gì, trong mộ thất lặng tờ chẳng có cái chi sất, nhưng khi ánh đèn pin lờ mờ quét qua vách tường mộ thất, không hiểu sao một cơn ớn lạnh tự nhiên xộc thẳng vào trong lục phủ ngũ tạng của chú Ba.

Chú Ba không như bọn tôi. Đối với người từ thuở nhỏ đã thường xuyên xuống đất dạo chơi như chú, người chết tuyệt không đáng sợ. Vì xác chết chẳng qua chỉ là đồ vật, dù cũng có nguy hiểm đấy, nhưng nó nào có biết tính kế hại người. Song, người sống thì khác. Chú Ba vừa nghĩ tới khả năng có kẻ thứ ba trong mộ thất này thì lập tức bắt đầu lo sợ.

Cú đòn hiểm tương vào gáy Giải Liên Hoàn kia, nói mạnh cũng đúng mà bảo nhẹ cũng chẳng sai. Ngày nay chúng ta thường xem phim truyền hình, thấy muốn ai té xỉu thì cứ việc kiếm cái gì táng đại một phát vào sau đầu hắn là xong. Nhưng người như chú Ba cũng biết rõ rằng, trên thực tế sức lực bỏ ra để choảng cho chết hay đập xỉu người ta là tương đương nhau. Nếu anh phang một cú hơi mạnh, vậy đối phương sống hay chết hoàn toàn phải trông vào số; còn nếu anh đập nhẹ tay tý, thì cùng lắm chỉ khiến đối phương choáng váng trong vài giây là cùng. Phương pháp đánh người bất tỉnh chứ không đập chết thực sự, chính là đánh vào gáy đối phương. Người giỏi võ thậm chí còn chả phải đánh, chỉ cần dùng tay bóp một phát là đối thủ lăn đùng ra xỉu ngay tắp lự.

Thế cho nên Giải Liên Hoàn xơi cú đòn này, tình hình lúc đó ra sao chú cũng chịu không hiểu được. Chỉ biết rằng, nếu kẻ đánh Giải Liên Hoàn là con người thì rõ ràng cú này xuống tay hắn đã ra đòn sát thủ, chứ nếu bị ngã do vật lộn thì chắc chắn chẳng đến mức nặng đến thế. Thậm chí lỡ có ngã chết cũng phải là do xuất huyết nội, chứ da đầu không thể rách toác ra vậy được.

Nhưng mà, làm sao lại có thể có kẻ thứ ba trong này cơ chứ?

Nếu nơi đây là cổ mộ trên đất liền, ngộ nhỡ đụng phải một hai người quen, thì dẫu xác suất nhỏ nhưng mà chú còn hiểu được. Chứ chỗ này tít dưới tận đáy biển sâu, lẽ nào có kẻ cũng đánh hơi thấy cái xó này, bèn lặn theo xuống đúng lúc thế à?

Không thể nào, khả năng này quá thấp. Chú Ba đầu óc nhanh nhạy, nhoáng cái liền nghĩ đến một khả năng khác.

Mẹ kiếp, chẳng nhẽ lúc mình với Giải Liên Hoàn xuống nước đã bị người trên thuyền trông thấy? Có người đã bám theo bọn họ xuống đến tận đây sao?

Giờ nghĩ lại mới thấy đúng là có khả năng. Khó có thể có tàu bè khác qua lại quanh chỗ này, mà bản thân mình lúc bắt quả tang Giải Liên Hoàn quả thực có làm ầm ĩ lên một lúc, lẽ nào có người bị đánh thức đúng vào lúc đó sao? Hắn không lên tiếng gọi bọn mình, mà ngược lại một mạch bám theo tới tận đây hả?

Suốt dọc đường đi, biển một màu tối mịt. Biển đen nước đen, chính là một khoảng mịt mùng hỗn độn, lại tối tăm đến mức chẳng nhìn rõ cái quỷ gì, nếu có người theo dõi cũng đảm bảo là đừng hòng mà phát hiện ra. Huống hồ cả hai lại chỉ lo lên đường cho chóng, căn bản nào có nghĩ tới mấy chuyện này.

Nói thật, lúc đó đối với chú Ba đám người trong đội khảo cổ kia vốn chẳng đáng lo. Chú thấy giả như có bị phát hiện thật, thì Văn Cẩm cũng vẫn có cách bao che cho chú. Lũ người kia cho dù ngờ vực thì cũng chẳng làm được cái quái gì. Thế cho nên khi cùng Giải Liên Hoàn xuống nước, chú hoàn toàn không để ý đến việc có bị kẻ nào phát hiện không. Nhưng chú thực sự không thể ngờ tới được là lại có người lén lút bám đuôi theo xuống.

Liệu sẽ là ai được đây? Người trong đội khảo cổ phần lớn chú đều quen biết, tuy cũng có vài bản mặt lạ hoắc, nhưng bình thường mắt nhìn người của chú khá chuẩn, ngoại trừ Giải Liên Hoàn thì chắc không có đứa nào khả nghi đâu. Thế nếu là phu lái thuyền thì sao? Cũng có thể lắm. Có lẽ lúc mình xuống nước đã bị tên phu thuyền nào đó thấy được, thế là hắn tò mò nên bèn bám theo sao?

Có điều đã tới đến tận đây thì ắt phải có đồ lặn. Đám phu thuyền bơi lội giỏi thật, nhưng mấy món thiết bị lặn này thì hẳn là họ không biết dùng chứ nhỉ?

Nói vậy thì chắc vẫn là người trong đội khảo cổ. Nhưng là ai mới được cơ?

Chú Ba nghĩ không ra, đành tự nhủ: cho dù có thế nào, nếu như kẻ đó do tình cờ mà mò được tới đây, thì lúc này ắt hẳn phải đánh tiếng đòi thương lượng rồi mới đúng. Đằng này hắn không những chả thèm mở miệng, lại còn ra tay nặng thế, đập Giải Liên Hoàn xỉu luôn. Với lại hồi nãy chú cũng không nghe thấy tiếng kêu la nào lớn, nên hẳn là đánh lén. Vậy nhất định phải có vấn đề rồi. Cứ đợi bố tóm cổ mày trước đã, để xem rốt cuộc mày là cái giống gì.

Những suy nghĩ này nháng lên trong đầu chú Ba như điện xẹt. Nghĩ tới đó chú gật gật gù gù, rồi tắt ngoéo đèn pin đi. Bốn phía bỗng chốc tối sầm, chỉ còn le lói vài tia sáng từ chiếc đèn pin của Giải Liên Hoàn đang lúc lắc. Tiếp đó chú liền sụp xuống nằm úp sấp trên mặt đất, lăn qua một bên.

Chú làm vậy là để đối phương không thể biết vị trí của mình. Địch ngoài sáng ta trong tối, thế thì mới dễ có cơ hội nhất. Mà đặc biệt chú Ba đặc nằm sấp xuống, đó là vì sợ đối phương nghe ra động tĩnh mà ném ám khí gì đó. Nói ví dụ, loại người giống như Trần Bì A Tứ chẳng hạn, nếu anh cứ đứng đực ra đó, thì chỉ cần dựa vào tiếng tim đập là lão ta có thể bắn trúng anh rồi.

Sau khi lăn mấy chục bước, áng chừng mình đã cách xa chiếc quan tài sắt, chú bèn tập trung tinh thần, kìm nén hơi thở, cố gắng lắng nghe tiếng động chung quanh.

Mộ thất vốn đã yên ắng vô cùng, có thể nói đánh rớt cây kim cũng nghe được tiếng. Khi chú Ba tức khắc im hơi lặng tiếng thì nó lại càng tĩnh lặng hơn. Chú thậm chí còn nghe thấy tiếng tim mình đập, vừa to vừa rõ cứ như sét đánh bên tai.

Ngoại trừ tiếng tim đập ra, quả thực chú cũng còn nghe thấy một ít âm thanh quái lạ. Tiếng động này rất khẽ, không nghe rõ phương hướng phát ra, nhưng chắc chắn là chỉ ở đâu đó quanh đây. Có lẽ đó là tiếng hít thở, hoặc cũng có thể là tiếng khẽ khàng cọ sát, khiến chú lập tức toát mồ hôi lạnh.

Quả nhiên là có người.

Chú Ba thầm chửi một tiếng, nhắm mắt lại, cố gắng lắng nghe chút âm thanh truyền đến hòng phân tích phương hướng của tiếng động này.

Có điều, mới chỉ nghe được một chốc mà âm thanh kia đã chợt biến mất, dường như đối phương biết mình bị chú phát hiện nên nín thở rồi.

Tim chú Ba đập dồn dập hơn. Chú vừa từ tốn bò bò lên, vì lỡ kẻ kia còn quanh quẩn gần đó, ngộ nhỡ không cẩn thận lại để cho hắn dẫm phải, thì mình đang nằm sấp thế này đảm bảo là rơi vào thế hạ phong rồi.

Mới bò được nửa đường, chú bất chợt nghe thấy chênh chếch bên trái phía sau mình có tiếng bẻ khớp ngón tay răng rắc, kề sát cực gần. Chú Ba trong chốc lát có hơi quýnh quáng, bèn xoay người vòng qua, muốn lùi về sau một chút, tránh xa khỏi âm thanh nọ.

Trong nháy mắt đó, chú đột nhiên cảm thấy gió nhẹ lướt qua một bên mặt, tự nhủ rằng thôi chết rồi, vội vàng tính hụp đầu xuống né nhưng đã không còn kịp. Từ trong bóng tối bỗng vụt đến một trận kình phong, có người đấm tới một cú rất mạnh, thoắt cái đã tẩn chú Ba ngã vật ra đất. Ngay sau đó, chú cảm thấy chiếc đèn pin bên hông của mình bị rút mất, nhưng tiếp theo lực đánh của thằng này cũng có phần nhẹ đi. Chú Ba dồn sức bật người lên định giãy ra, nhưng đột nhiên dưới cằm tê dại, thì ra chú đã bị kẻ nọ dùng đèn pin hung bạo đập cho một cú, tức thì hộc máu đầy mồm.

Mẹ kiếp, thằng kia nhìn thấy mình! Trong tích tắc đó ý nghĩ này vụt hiện lên trong đầu chú Ba.

Ở chỗ tối om như này mà có thể tấn công chuẩn xác đến nhường ấy, hơn nữa thoắt một cái đã rút mất đèn pin của mình, chứng tỏ là thằng này phải nhìn thấy rất rõ ràng.

Thế *éo nào, chẳng nhẽ mắt nó là mắt mèo à?

Vẫn chưa hết kinh hãi, chú dùng sức lắc đầu né sang chỗ khác. Nhưng sau đó đối phương vẫn nện một cú thứ hai rất chuẩn xác không chệch lấy một phân, táng thẳng vào mũi chú Ba. Lần này trúng đòn quá nặng, chú thậm chí không cất nổi đầu lên, một thứ có vị mằn mặn ọc đầy ra trong miệng.

Lần này chú Ba điên máu thật rồi. Từ nhỏ chú đã làm vương làm tướng trong nhà, ngoại trừ bị ông nội đánh thì nào có từng chịu thiệt như thế bao giờ? Sát ý lập tức nổi lên, chú ngẩng đầu tìm ngay con dao găm.

Nhưng còn chưa vớ được cái gì, cằm chú đã xơi thêm cú đấm rõ mạnh. Tất cả toàn là đòn sát thủ, cằm chú Ba đau đến mất cả cảm giác. Sau đó, tay cầm dao găm của chú cũng bị người ta tóm chặt.

Bị đè thẳng cẳng thế này nên không vận được tí hơi sức nào, tay thì bị siết chặt ấn ghì sát đất. Chú Ba chửi lớn một tiếng, nghĩ bụng mẹ kiếp mày còn muốn hiếp dâm tao như thế nào nữa. Chú thình lình ngẩng đầu lên, cả một miệng đầy nước bọt trộn lẫn với lượng lớn máu tươi đều phun hết ra ngoài.

Dựa vào cảm giác, chú biết đối phương chợt lắc mạnh một cái. Chính ngay trong tích tắc này, chú Ba vặn cả thân mình, vùng lên định thoát ra. Đối phương không ngờ chú Ba vẫn còn có thể giãy giụa, bèn vội vã tỳ cả thân mình xuống, lấy đầu gối chặn lại, vây chú Ba vào giữa.

Bình thường những lúc phang nhau, nếu một người bị kẻ kia ghì xuống, thì một khi đối phương nới lỏng sức lực, ý nghĩ đầu tiên xuất hiện trong đầu họ sẽ là giãy ra. Thế nhưng lúc này đối với kẻ phía trên, muốn tiếp tục khống chế anh là việc quá dễ dàng. Thế cho nên chú Ba chỉ giả đò giãy giụa, đợi lúc kẻ nọ lại đè mình xuống, chú đã dùng tay kia vớ được cái túi chống thấm chứa sọ người, bắt đầu dùng nó đập túi bụi.

Sau một cú nện cũng chả biết trúng phải chỗ nào, chú chợt nghe đối phương kêu lên đau đớn, lăn ra ngoài. Chú Ba cười ha hả, vặn mình một cái liền đứng dậy, vơ cái túi chống thấm, cứ nhằm hướng có tiếng rên của kẻ đó mà phang.

Tiếc nỗi lúc bấy giờ xương xẩu trong túi đảm bảo đã vỡ vụn không còn giữ được hình thù, mà chỉ mỗi cái túi chống thấm thì có đập thêm cũng chẳng còn uy lực gì nữa. Chú Ba bèn chẳng quản mình đánh có trúng hay không, lảo đảo nhào tới chỗ cái đèn pin của Giải Liên Hoàn, cầm đèn chiếu ra sau lưng.

Lúc trước cứ đắn đo suy nghĩ mãi về vấn đề phang nhau trong tối (:v), giờ hóa ra đã vô dụng. Đối thủ dù tối vẫn cứ nhìn thấy chú, thành thử mấy động tác tắt đèn pin, nằm úp sấp, lộn vòng tròn của mình hóa mẹ nó thành trò cười hết ráo. Giờ mà muốn khống chế địch thủ, thì chỉ có mỗi cách ép hắn phải lộ mặt.

Song, khi ánh đèn pin như chớp lướt nửa vòng, chú lại chẳng thấy ai. Kẻ tập kích chú đã biến mất.

Khi ấy, chú còn đang trong trạng thái tức giận, chẳng còn tỉnh táo gì nữa, thấy người trốn mất bèn chửi ầm lên, xách dao găm đi tìm. Mới đi được một vòng quanh quan tài, chú chợt nghe thấy từ nơi mình lên khỏi mặt biển có tiếng thứ gì nhào vào trong nước.

Mẹ kiếp, trốn đấy hả? Chú Ba nhảy dựng lên, mau chóng đuổi theo. Vừa lao đến sát mép nước thì thấy kẻ kia vừa kịp lặn xuống, nước trên mặt vẫn còn lăn tăn sóng gợn. Chú Ba điên tiết định lao luôn xuống, nhưng thấy làn nước dưới ánh đèn kia đen ngòm, lặn xuống lỡ gặp đối phương mai phục tại đó thì cứ gọi là ăn không hết đòn, chú đành nhịn như nhịn cơm sống, chỉ tay xuống nước chửi sồn sồn.

Vì không biết kẻ đó là ai, cho nên chú cứ thế đào mả tổ tông tất cả cái đám trên thuyền lên chửi một lượt, chỉ chừa lại Văn Cẩm.

Thế nhưng, chửi chửi mắng mắng một hồi, chú bỗng cảm thấy không ổn, vì hình như bên mình cứ có tiếng gì xì xì quái lắm, nghe ngứa cả lỗ tai.

Chú Ba bèn cầm đèn pin chiếu về hướng tiếng động phát ra, tức khắc toàn thân lạnh buốt, thiếu điều ngất xỉu.

Thì ra, bình oxy của chú đã bị người ta vặn van an toàn ra từ lúc nào, dưỡng khí đang xì xì thoát ra ngoài.

Chương 22: La chn

Nói đến đây chú Ba than thở một hơi rõ dài, day day ấn đường, dường như không hề muốn nhắc đến những chuyện xảy ra sau đó.

Mà tôi nghe đến đây, cả người cũng đầm đìa mồ hôi hột. Chú Ba dừng lại, tôi vừa hay có dịp thở một miếng xả hơi.

Chuyện này thực là kinh hồn bạt vía. Suốt trong lúc nghe tôi cứ thấy hơi nghẹn thở, đặc biệt là khi nghe đến đoạn phát hiện ra kẻ thứ ba, tôi có cảm giác cứ như đang nghe kể tiểu thuyết chương hồi(*) vậy.

(*) nguyên văn 评书, một loại hình nghệ thuật hát nói: một người kể chuyện dài, vừa kể chuyện vừa minh họa các cảnh tượng, mô phỏng lại nhân vật, bình phẩm nội dung truyện, có thể dùng quạt, khăn làm đạo cụ.

Kẻ nọ là ai? Tôi thầm nghĩ, xét theo hành động của hắn thì có thể thấy kẻ này tương đối quyết liệt. Van bình dưỡng khí không thể bị hở do chạm vào đâu đó hay tự động lỏng ra được, nhưng giờ nó lại bị vặn mở ra, chứng tỏ chắc chắn là do người làm. Hơn nữa, rất có thể nó đã bị mở ra từ khi kẻ đó bám gót theo chú Ba tiến vào, dưỡng khí bên trong đương nhiên không còn lại nhiều lắm.

Mộ thất dưới đáy biển này nằm cách mặt nước một khoảng cách khá xa, nếu không có dưỡng khí, hiển nhiên chú Ba và Giải Liên Hoàn sẽ bị chôn sống trong này cho đến khi tắt thở. Kẻ nọ có trở về thuyền thì cũng sẽ không để hở ra chuyện của chú Ba, ngôi cổ mộ này nhất định sẽ không bị phát hiện. Người trên thuyền muốn tìm cũng đừng hòng tìm thấy, thì dĩ nhiên chẳng thể trông chờ vào khả năng được bọn họ lặn xuống đón lên được. Đây là một đòn sát thủ vô cùng thâm độc, hiển nhiên là kẻ này nhất quyết muốn chú Ba và Giải Liên Hoàn chết luôn trong ấy.

Như vậy, tình cảnh lúc đó của chú Ba thật ra còn gay go hơn cả chúng tôi. Chú chỉ có một mình, vả lại còn lặn sâu dưới đáy biển ở cự ly ghê gớm hơn chúng tôi rất nhiều.

Có điều giờ này chú Ba còn ngồi rung đùi uống trà lù lù trước mặt tôi, chứng tỏ rốt cuộc chú vẫn tìm được cách thoát thân. Cho nên cái thằng tôi đây cũng không cần phải hồi hộp quá đáng.

Khi cả hai đều trấn tĩnh lại, chú Ba ngừng một lát rồi mới kể tiếp.

Lúc ấy, thấy tình cảnh như thế, đầu óc chú lập tức muốn nổ tung, vội vã bổ nhào vào vặn lại chốt van dẫn khí. Vặn chặt xong, chú đã sợ đến lạnh toát cả người.

Trong nháy mắt ấy chú đã tưởng mình tiêu đời rồi, đảm bảo lần này chết chắc, hơn nữa còn là kiểu chết chú sợ nhất: trong cổ mộ bít bùng, cứ thế bị nhốt chết. Chú vừa hối hận vì mình sơ xuất quá, mà trong lòng thì vừa căm hận ngập tràn. Với chú Ba mà nói, chết trong mộ cổ thì chết trong mộ cổ, chẳng sao. Nếu trúng cạm bẫy rồi chết thì tức là cái số nó thế, chả làm thế nào được, nhưng để người ta hại chết thì chú cực kỳ cực kỳ không cam tâm. Thật sự rất ấm ức!

Chú lập tức xem đồng hồ đo dưỡng khí, xem xong liền nghiến răng nghiến lợi. Bình dưỡng khí của chú, có lẽ là do cái van có tác dụng chống rò rỉ nên oxy không thoát ra hết sạch, lượng khí oxy chỉ còn lại một phần mười. Bình dưỡng khí của Giải Liên Hoàn cũng chỉ còn một ít, gần như chỉ có xíu xiu, áng chừng thở được ba bốn chục hơi là cạn.

Điều này có khả năng là do thời gian xả khí tương đối ngắn. Nếu chậm thêm vài phút nữa thì chắc chỉ còn trơ lại mấy cái bình không.

Tí tẹo dưỡng khí ấy, khác nào có cũng như không. Lúc bọn họ vào đây chú Ba đã dùng hết một nửa, còn Giải Liên Hoàn thì dùng đến quá nửa. Chừng này dưỡng khí thì còn khướt mới đủ để trở ra.

Nghĩ vậy, chú Ba liền tuyệt vọng. Chú nhìn mộ thất bốn phía tối thui, một cảm giác sợ hãi tột cùng ập đến. Chú tự hỏi lẽ nào mình lại bị nhốt ở đây đến chết thật sao?

Càng nghĩ chú Ba càng sợ hãi, hơn nữa là hoảng sợ thật sự chứ không phải căng thẳng hay lo âu. Lúc ấy bỗng có một ý nghĩ lóe lên trong đầu chú, rằng mình không thể chết trong này được, có chết thì cũng phải chết ở chỗ khác. Khoảnh khắc ấy chú suýt nữa định đâm đầu xuống cửa vào ngập nước, tự dìm mình chết đuối cho rồi.

Nhưng chú Ba nói cho cùng vẫn là một kẻ kiêu hùng. Cảm giác sợ hãi này bị chú đè nén xuống rất nhanh. Chú tự giáng cho mình một cái bạt tai, chửi bản thân là đồ không chí tiến thủ. Thế rồi chú bình tĩnh lại, bắt đầu suy tính xem mình nên làm gì bây giờ.

Khi tôi, Bàn Tử và Muộn Du Bình cùng bị vây nhốt, do một tẹo dưỡng khí cũng chẳng có nên chỉ có thể dồn mọi hy vọng vào việc tìm bình dưỡng khí. Thế nhưng, khi đó chú Ba vẫn còn dưỡng khí, hơn nữa lượng dưỡng khí cũng tầm tầm không nhiều không ít, cực kỳ khó xử, cho nên mọi suy nghĩ của chú nhanh chóng bị thu hút cả vào lượng dưỡng khí này. Việc đầu tiên chú bắt đầu cân nhắc, liệu với chút dưỡng khí này thì mình có tý khả năng nào có thể cầm cự để ra được đến bên ngoài hay không?

Suy đi tính lại, kỳ thực cũng chẳng ra được kết quả nào, bởi vì dưỡng khí quá ít. Tuy rằng lúc chú tiến vào hồi nãy, do suốt dọc đường cứ cẩn thận dè dặt từng ly nên tốc độ cũng không cao, nếu lúc đi ra tăng tốc một chút thì có thể bớt được một khoảng thời gian khá dài, nhưng mà lúc vào đã dùng đến năm phần dưỡng khí, giờ ra ngoài chỉ được dùng có một phần, hay nói cách khác là tốc độ đi ra phải gấp năm lần lúc đi vào.

Lúc vào mất chừng ba mươi phút, thế thì đi ra chỉ được có sáu phút à? Chú có phải cá đâu, sao mà làm được.

Quả này thì chú Ba lại hơi khó chịu rồi. Chú lập tức tát cho mình phát nữa, vỗ về cơn sợ hãi của bản thân, ép mình phải tiếp tục suy nghĩ.

Với sáu phút kia thì liệu có thể đến được chỗ nào đây? Từ đây ra đã mất khoảng ba phút, sáu phút thì chỉ có thể đến được miệng cái vực khổng lồ sâu hút hút mà thôi. Đó đã là tốc độ nhanh nhất rồi.

Một khi đã đến được miệng vực sâu, thế thì đại khái chỉ cần mười phút là nhất định sẽ ra được bên ngoài, cũng tức là lộ trình nửa tiếng đồng hồ đó, nếu tốt số thì có thể đi qua chỉ trong mười sáu phút thôi. Hơn nữa, chú ngó đồng hồ, thuỷ triều sắp rút rồi. Tới lúc đó thì cái miệng hang kia sẽ lộ ra khỏi mặt biển một chút, không khí sẽ tràn vào phía trên hang. Như vậy, có lẽ chưa cần ra đến cửa hang đã có thể hít được không khí.

Mà mình còn có thể nín thở một phút, vậy chỉ cần tìm đủ dưỡng khí để hít thở thêm mười phút là được.

Tuy nhiên, đào đâu ra dưỡng khí để thở trong mười phút này đây? Đến đây thì hết cách. Chú Ba vò đầu bứt tai, theo phản xạ nhìn quanh quất khắp nơi, hy vọng có thể tìm thấy thứ nào đó cho mình một gợi ý.

Thế nhưng trong cổ mộ thì có quái gì gợi ý được đây? Lẽ nào còn có cái bình dưỡng khí bằng gốm sứ thời Minh Thanh cho mình phát hiện ra chắc?

Ý nghĩ này chẳng khác nào nằm mơ giữa ban ngày. Chú Ba ảo não dùng sức vỗ đét một cái lên mặt nước chỗ cửa vào. Lúc đó chú liền thấy làn nước biển đen ngòm bên dưới phản chiếu cái bóng của mình, bèn xoay đèn pin chênh chếch, cái bóng lại càng rõ ràng hơn. Trong chốc lát, chú đã phát hiện ra thứ có thể cung cấp cho mình mười phút dưỡng khí rồi.

Chú Ba đúng là có sáng kiến lóe lên. Thứ lúc đó chú nhìn thấy, chính là bộ đồ lặn trên người mình.

Vậy làm sao đem đồ lặn ra làm bình dưỡng khí được đây? Ý tưởng mà chú Ba nghĩ đến thật vô cùng tài tình. Chú buộc hết ống tay ống chân bộ đồ lặn, sau đó ra sức túm lại, lấy đầy khí vào bên trong rồi buộc kín luôn cả cổ áo. Bộ đồ lặn liền biến thành một cái túi khí. Chú nhảy vào trong nước, sau đó cởi một ống tay áo làm ống hít dưỡng khí.

Sau một lúc, chú phát hiện ra cái món này đúng là xài được. Mẹ nó chứ, chú hít thở đại khái khoảng ba bốn phút mới cảm thấy không khí bắt đầu ngột ngạt.

Có cửa, có cửa rồi! Chú mừng húm, lập tức trèo lên, lột nốt đồ của Giải Liên Hoàn làm thành một túi khí khác. Sau đó chú lại lấy đầy khí vào hai cái túi nước rỗng, bụng bảo dạ thế là kiếm chác được mười phút rồi!

Nghĩ đến đây thì chú chẳng thể đợi nổi thêm một khắc nào nữa, lập tức kéo hết toàn bộ đồ nghề, chuẩn bị lặn xuống nước thoát ra ngoài.

Tính chú Ba không hay ngần ngừ như tôi, cũng sẽ không chọn cách làm bảo thủ. Cho nên lúc ấy chú không hề do dự chút xíu nào cả.

Có điều, cho dù có thể cầm cự thoát ra ngoài bằng số dưỡng khí này, thì cũng chỉ có thể miễn cưỡng đủ để một người trở ra. Người này nhất định phải mang cả hai bình dưỡng khí, người còn lại phải ở đây chờ người kia quay về đón. Nếu người kia chết dọc đường, vậy thì chẳng có ai về được nữa. Cho nên lần này áp lực tâm lý cực kỳ lớn.

Lúc đó chú Ba không cảm thấy cái việc này quan trọng đến thế nào. Chú tự nhủ lòng rằng dù sao dưỡng khí của Giải Liên Hoàn vốn đã không đủ, làm thế này chẳng qua chỉ nghiêm trọng hơn chút xíu mà thôi. Vả lại lúc đó chú căn bản cũng chả còn lòng dạ nào mà lo cho Giải Liên Hoàn được nữa. Bản thân chú đã rơi vào một trạng thái kích động cực độ rồi.

Chú đặt Giải Liên Hoàn lên bệ quan tài, sau đó lấy cái túi đựng sọ người ban nãy dùng choảng nhau ra cho hắn gối đầu, lại sửa sang tư thế để hắn thoải mái dễ chịu chút, rồi quay về cửa vào ngập nước, nhào xuống luôn chẳng thèm nghĩ ngợi gì.

Sự thật đúng như chú Ba dự đoán, sáu phút sau chú đã ở trong lòng vực sâu kia. Dưỡng khí thế mà vẫn còn một ít.

Lúc này chú Ba đã yên lòng trở lại, trong thâm tâm chú thật sự bội phục bản thân. Chú tự nhủ rằng làm đến nước này mà còn không nhốt chết được mình, giờ mình trở lại thuyền, cái thằng khốn nạn ám hại mình kia còn không bị hù chết.

Chú chật vật kéo hai cái túi khí vĩ đại sau lưng, thế là không chủ định thì vẫn nổi lên, cũng giúp chú tiết kiệm được kha khá sức lực. Dựa vào trí nhớ, chú bơi về hướng miệng vực sâu. Nhưng điều khiến chú bất ngờ chính là, đợi tới khi bơi đến chỗ mình vẫn đinh ninh là cửa ra vào, chú lại sững sờ.

Nơi đó trống trơn, chỉ có một mảng đá san hô ngầm gồ ghề.

Hả? Chú buồn bực, lại chiếu đèn sang bên, cứ thế chiếu lấy chiếu để mà vẫn chẳng thấy lối ra đâu cả.

Trong chốc lát chú lạnh toát người. Mẹ kiếp, mọi việc không hề thuận lợi như chú nghĩ. Xem ra có vẻ như là mình đã nhớ nhầm vị trí lối vào rồi! Thoáng căng thẳng, mồ hôi lạnh toát ra, chú nhìn mức dưỡng khí, đã xuống tới dưới 0.

Chương 23: Mười phút ca Thượng Đế

Chú Ba cuống cả lên, nhưng chú cũng còn biết lúc này tuyệt đối không thể mất bình tĩnh. Chú tháo bình dưỡng khí trên người, đá văng đi, sau đó tiếp lấy bình còn lại của Giải Liên Hoàn rồi tiếp tục tìm kiếm lối vào.

Thật ra lúc này tình hình đã gay go lắm lắm rồi. Khi lấy đèn pin chiếu ra xung quanh, chú đã phát hiện bốn bề chỉ còn một màn đêm đen thăm thẳm, ngay cả mình đến từ hướng nào chú cũng không thể nhận biết rõ ràng.

Xem ra mình suy nghĩ quá ngây thơ rồi. Chú Ba chửi thầm, một trận tim đập chân run còn dữ dội hơn so với nỗi sợ bị nhốt chết trong cổ mộ bắt đầu ập đến. Đó chính là vì chú ý thức được rằng, mình nhiều khả năng chết chắc rồi.

Có điều, sau cơn sợ hãi đến cùng cực ấy, chú Ba trái lại lại lấy được bình tĩnh, tự nhủ mình còn những mười phút thời gian cơ mà. Hy vọng có lẽ chính là nằm ở mười phút này đây. Mà cho dù có tìm không được đường, cũng được, vấn đề chẳng qua chỉ là chết sớm hay chết muộn mà thôi.

Chú dựa vào trực giác tiếp tục lùng sục thêm lần nữa. Nhoáng cái, bình dưỡng khí của Giải Liên Hoàn cũng rỗng không rồi. Chú bèn cởi túi khí, bắt đầu hít không khí bên trong. Nhưng bốn bề vẫn tối om om, cảm giác này khiến người ta thấy bất lực vô cùng, đặc biệt là những khi anh có thứ gì đó cần tìm, nhưng kiếm thế nào cũng không thấy thứ ấy đâu. Chú Ba bắt đầu rơi vào tuyệt vọng. Đúng lúc này, họa vô đơn chí, bỗng đèn pin của Giải Liên Hoàn nhấp nháy vài cái rồi cứ thế tắt ngóm. Nháy mắt bốn bề cứ thế chìm vào bóng tối mịt mùng.

Chú Ba thấy vậy, thầm nghĩ rằng thôi, trời đã bắt ta phải chết thì cũng còn biết làm sao. Đúng lúc đó, chú chợt thấy trong khoảng bóng tối trước mặt mình bỗng nhiên xuất hiện những đốm sáng màu lục.

Ô kìa, là đám xác cổ ca múa! Chú Ba bật cây đèn thăm dò bên hông chiếu sang phía đó thì quả nhiên thấy đám xác cổ nọ lại trôi trở về, hơn nữa còn cách chú cực gần, chỉ tầm năm sáu mét.

Trong lòng chú Ba lóe lên một tia hy vọng, thầm nghĩ rằng ừ nhỉ, cửa vào nằm trên quỹ đạo di chuyển của đám xác cổ này, cứ đi theo chúng thì có thể tìm được cửa rồi.

Thế là chú bơi qua, chui vào giữa đám xác cổ kia, tiến lên theo chúng nó.

Vừa đến gần, chú đã phát hiện ra rằng mấy cái xác cổ này hình như đang trôi theo một luồng nước. Chú cũng nhảy vào dòng chảy ấy, bắt đầu tự động trôi về phía trước. Đồng thời chú cũng chiếu đèn thăm dò lên quan sát tình hình bên trên.

Song, điều khiến chú hết sức lo lắng là đám xác chết này trôi quá chậm. Chẳng mấy chốc chú đã hít thở gần hết khí trong cái túi đầu tiên mà vẫn chưa tìm được cửa vào.

Chú Ba kể với tôi, rằng lúc ấy chú đã gần như rơi vào trạng thái phát điên rồi. Thế nhưng cũng chẳng còn cách nào khác, chỉ có thể tiếp tục đâm lao phải theo lao. Chú chỉ đành gửi gắm hy vọng vào một kỳ tích, hay nói cách khác, lúc ấy trong lòng chú căn bản đã không còn tâm trí đâu mà sợ hãi, cũng chẳng cách nào nghĩ đến chuyện dưỡng khí được nữa, chỉ mong mình có thể nhìn thấy cái cửa vào kia ngay lập tức.

Có điều, chờ đến khi chú rốt cuộc cũng thấy cái cửa vào đó xuất hiện lên đỉnh đầu thì túi khí thứ hai cũng sắp cạn sạch rồi. Với lượng khí ở trong hai túi nước thì cùng lắm chỉ cầm cự được hai phút. Thế này thì đi vào có khác gì tự sát đâu? Còn nếu cứ trôi xuôi theo dòng nước xuống dưới, trái lại còn có hy vọng trở về được mộ thất kia.

Chú Ba nhìn cửa vào, lại liếc khoảng tối bên dưới, lập tức đưa ra một quyết định. Gì thì gì chú cũng phải vật lộn một trận. Nếu đi xuống thì chẳng qua chỉ chết muộn hơn một chút mà thôi. Hai phút, dù có bất khả thi nhưng cũng phải thử. Chú không muốn bó tay chờ chết.

Chú hít một ngụm khí đầy rồi bơi lên phía trên, nhưng trong tích tắc bơi ra khỏi luồng chảy, do nước bên ngoài chảy chậm hơn nên chú bị đẩy lộn nhào, thoáng chốc đã đâm sầm vào một cái xác cổ.

Lực đẩy của dòng nước khá lớn, chú Ba không khống chế nổi tư thế của mình, vội vàng ôm lấy cái xác cổ kia, ra sức ổn định lại cơ thể.

Đúng lúc đó, bỗng có một tia sáng lóe lên trong đầu chú. Chú nhìn thấy trên miệng cái xác cổ nọ thế nào mà lại có bọt khí thoát ra. Hả? Chú sững sờ giây lát rồi ấn vào cái xác cổ một cái, thì lập tức phát hiện ra đây không phải người thật, mà là một cái hình nộm làm bằng tre trúc gì đó, bên ngoái trát vữa trộn bột đá và bùn nhão trộn dầu. Hơn nữa rõ ràng là nó rỗng ruột, có không khí ở bên trong!

Không phải chứ. Nghĩ tới đó chú Ba lập tức rút dao găm. Dao một nhát xọc vào, bọt khí lập tức trào ra theo chỗ thủng.

Chú Ba nhào vào hít lấy hít để không khí bên trong cứ như đang uống máu. Mới hít được một hơi chú đã biết mình có cửa sống rồi. Tuy không khí bên trong khó ngửi cực kỳ nhưng không phải khí độc, có thể hô hấp.

Nghĩ vậy, chú liền kéo theo hai khối xác cổ, đẩy ra khỏi dòng nước, tiến vào cửa.

Nói ra thì đúng là ngoài sức tưởng tượng, ai cũng không thể tin được, nhưng quả thật chú Ba cứ thế mà thành công lượm về được một mạng đấy.

Lúc chú về tới thuyền thì đã sáng rõ, mặt trời cũng sắp mọc đến nơi rồi. Vừa lên thuyền trở lại là chú đem dụng cụ cất kỹ, liền thấy bộ trang thiết bị thứ ba ướt nhẹp quẳng trong xó. Chú lập tức xác nhận rằng kẻ muốn đẩy mình vào chỗ chết nhất định phải thuộc đội khảo cổ.

Nhưng khi trở lại khoang nghỉ, phát hiện mọi người đều ngủ say như chết, chú bèn quan sát từng người một lượt mà căn bản lại không phát hiện ra kẻ nào có điểm bất thường.

Nếu là bình thường thì đảm bảo chú đã trói gô từng người lại tra khảo, nhưng giờ nể mặt Văn Cẩm nên chú không thể làm thế, đành phải nhẫn nhịn, cũng giả vờ ngủ. Mãi cho đến hai tiếng sau, trời sáng, chú mới giả vờ phát hiện Giải Liên Hoàn mất tích, thế là bọn họ bắt đầu tìm kiếm. Ban đầu chú định dụ cho bọn họ phát hiện cái động đá ngầm kia. Nhưng không ngờ là lại tìm thấy thi thể của Giải Liên Hoàn chết đuối ngay gần đó.

Chú Ba bảo với tôi rằng: "Chú không biết hắn đã thoát ra như thế nào. Với tình hình lúc đó thì xem ra có khả năng là sau khi hắn tỉnh lại, phát hiện thấy không có bình dưỡng khí, chỉ còn lại mỗi mình mình, trong cơn hoảng loạn liền cố kiết chạy ra, sau đó thì chết đuối. Chú thật sự không ngờ hắn lại ngu xuẩn đến thế. Có điều hiện giờ ngẫm lại, nói ra thì cũng coi như chú đã hại chết hắn."

Tôi nghe xong thở dài một hơi, bảo với chú Ba: "Lúc lên đến nơi, đáng ra chú phải quay xuống cứu hắn ngay lập tức. Nếu thế thì chuyện này đã chẳng xảy ra. Thế mà chú còn ngủ được."

Chú Ba gật đầu, cũng thở dài nói: "Lúc ấy chú cảm thấy xuống cứu người ngay thì quá nguy hiểm. Chú không biết là kẻ nào trên thuyền muốn lấy mạng mình, lại vào trong đó thì chỉ sợ vẫn bị thằng khác bẫy cho phải biết. Dù sao bọn họ tỉnh lại rồi sẽ nhanh chóng phát hiện ra Giải Liên Hoàn đã biến mất, nhất định sẽ đi tìm. Chú đã neo cái xuồng cao su lại chỗ bãi đá ngầm, chỉ cần đúng lúc thì dẫn dụ bọn họ đến đó, rồi thừa dịp lộn xộn lẻn vào động, đi về cùng lắm chỉ mất nửa giờ. Bằng không một mình chú mang theo hai bộ dụng cụ xuống biển cả đêm, không chỉ khiến người khác hoài nghi, mà sau khi cứu thoát Giải Liên Hoàn cũng khó ăn khó nói." Chú Ba lắc đầu, "Giờ mày đã biết vì sao chú không muốn kể chuyện này ra rồi chứ, đây là chuyện khiến chú Ba mày ân hận nhất đời."

Chuyện này nói ra lại làm tôi nhớ đến bức huyết thư kia. Giờ thì đã rõ vì sao Giải Liên Hoàn lại đinh ninh là chú Ba hại hắn. Mẹ nó chứ đã bị đánh lén trúng ót, Giải Liên Hoàn đảm bảo chẳng biết đứa nào làm. Hắn không thể ngờ rằng trong cổ mộ còn có người thứ ba theo vào. Sau khi tỉnh lại người đầu tiên nghĩ đến chính là chú Ba, sau đó lại thấy đồ lặn của mình không cánh mà bay, lại chẳng đinh ninh chú Ba muốn giết hắn.

Thiên cổ kì oan, tôi chợt nghĩ đến những hiểu lầm không thể gỡ bỏ trong tiểu thuyết Kim Dung. Còn tưởng đó là văn học cường điệu lên thôi, chẳng ngờ ấy thế mà có xảy ra thật.

Rốt cuộc Giải Liên Hoàn lấy được Xà mi đồng ngư từ đâu, vì sao thi thể lại xuất hiện dưới dãy đá ngầm, chuyện này đã hết đường kiểm nghiệm. Có lẽ trong cơn tuyệt vọng hắn đã tìm được đường nào đó. Thế nhưng cổ mộ nằm dưới nước, dù có thể thoát ra cũng không tránh khỏi một lớp nước biển kia. Giải Liên Hoàn chung quy không thoát nổi số kiếp của mình.

Chuyện Giải Liên Hoàn hiểu lầm vẫn đừng nên kể cho chú Ba nghe thì hơn, kẻo nghe xong chú lại bị dằn vặt. Tôi thầm suy tính thế trong lòng.

Chú Ba tiếp tục bảo: "Chuyện xảy ra sau đó chú đã kể cho mày ở Tế Nam rồi. Đương nhiên lúc ấy chú cũng không muốn cho mày biết cái chết của Giải Liên Hoàn có liên quan đến chú, cho nên những chuyện diễn ra sau khi chú và nhóm Văn Cẩm tiến vào huyệt mộ dưới đáy biển lần thứ hai, chú cũng không đề cập gì đến. Thật ra lúc tiến vào, đúng là chú đã giả vờ ngủ, bởi vì chú sợ bọn họ sẽ đến được gian mộ thất kia. Chú không biết Giải Liên Hoàn có để lại gì trong đó không, cho nên muốn tranh thủ lúc bọn họ chưa đến thì xem trước. Ngoài ra chú biết sau khi xuống mộ, kẻ đã tấn công chú nhất định sẽ lòi đuôi cáo già. Chú muốn dựa vào đó để tìm ra hắn, báo thù cho Giải Liên Hoàn."

Lúc này, tôi lại nghĩ đến những chuyện mà Muộn Du Bình từng kể với mình. Nghĩ thử thì hình như người đề xuất thăm dò cổ mộ chính là Muộn Du Bình. Trong lòng sáng tỏ, tôi bèn hỏi chú Ba: "Vậy chú có nhìn ra kẻ đó rốt cuộc là ai không? Có phải chính là Trương Khởi Linh nọ hay không?"

Bản lĩnh của hắn, gốc gác của hắn, đều hết sức thần bí. Nếu đó là hắn thì sự việc cũng tương đối dễ giải thích.

Chú Ba liền nhíu mày: "Sau khi bọn họ ra ngoài, chú cũng bám theo sau. Người này đúng là tương đối khả nghi, nhưng có kẻ còn khả nghi hơn. Tóm lại là sau khi quan sát thì chú cũng không rõ lắm nữa. Chú thấy ai cũng khả nghi, nhưng cá nhân chú cho rằng với bản lĩnh của vị Tiểu Ca kia, bằng vào mấy ngón võ mèo cào của chú, chỉ e đã bị đánh chết thẳng cẳng ngay tại trận rồi. Khả năng đó rất không cao."

Tôi cũng ý thức được điều này, nên mới gật đầu. Bình thường Muộn Du Bình trông có vẻ hiền lành yếu ớt, lúc nào cũng như đang buồn ngủ, nhưng đã nổi cơn hung đồ là hắn xông thẳng vào vặn cổ người ta ngay. Kể ra thì đó là cách giết người nhanh nhất. Chú Ba nhất định không phải là đối thủ của hắn. Vì thế tôi lại hỏi: "Thế sau đó thì sao?"

"Sau đó...... chờ cậu Tiểu Ca kia dẫn nhóm người ấy ra ngoài, chú mới lén đi theo. Trong cổ mộ đó, sau khi bọn họ tiến vào mộ thất trong ao nước kia, chú lúc ấy cũng không biết dưới ấy còn có đường thông ra chỗ khác mà cứ tưởng bọn họ đi hết một vòng sẽ quay ra, liền đứng đợi trong chỗ tối ở hành lang. Chờ một lúc không thấy bọn họ trở ra, chú chột dạ sợ bọn họ gặp nguy hiểm, mới theo vào. Chuyện xảy ra sau đó thì chắc Tiểu Ca đã kể với mày. Chú chỉ bám theo sau, chuyện hắn kể chắc là có phần rõ ràng hơn chú."

Lúc này tôi đã nhớ ra một chi tiết, bèn hỏi luôn: "Thế hắn bảo chú bắt chước các chị em soi gương rồi dẫn đường cho bọn họ vượt qua trận kỳ môn độn giáp, cũng là thật sao?"

Chú Ba "hử" một tiếng: "Cái gì mà chị em cơ?"

Tôi đem những chuyện Muộn Du Bình hồi đó nói ra kể lại. Chú Ba tức thì tròn cả mắt, "Còn có chuyện đó à?"

Tôi nhếch mép, lòng thầm nhủ rằng đừng bảo ông không biết đấy nhé. Nhưng chú Ba lại thật sự hít một hơi khí lạnh, đứng lên bắt đầu chậm rãi đảo đi đảo lại vài bước: "Hắn nói thế thật à?"

"Với hoàn cảnh lúc đó thì đảm bảo chắc chắn là cháu không thể nghe nhầm rồi."

Chú Ba nheo mắt, bảo tôi kể lại cho rõ ràng. Tôi bèn cố gắng nhớ lại những chuyện Muộn Du Bình đã kể với mình rồi thuật lại tỉ mỉ một lượt.

Chú Ba nghe xong thì vê cằm, lắc đầu liên tục: "Sai bét sai bét! Hắn lừa người!"

"Lừa người?"

"Chú đứng trên thềm đá, sương mù dày quá, đến cả tình hình lúc đó còn không nhìn thấy. Chú có thể lấy Văn Cẩm ra mà thề rằng mình tuyệt đối không hề xuống dưới đó, căn bản cũng không biết trong đấy có cơ quan gì. Lời Tiểu Ca kia chỉ là lời của một bên, không thể cứ thế mà tin hắn được."

Tôi nhíu mày: "Nhưng mà với tình hình lúc đó, cháu không nghĩ hắn cần phải lừa tụi cháu làm gì. Thậm chí nếu hắn không kể chuyện này ra thì tụi cháu cũng có làm gì được hắn đâu."

Chú Ba vỗ đầu cái bộp, ngẫm nghĩ rồi bảo: "Nói cũng phải, giả như những gì hắn nói là thật thì cũng có vấn đề. Mày xem, thằng nhóc này bảo rằng 'chú' ngồi xổm ở đó, hắn thấy bóng lưng 'chú', tất cả phán đoán của bọn họ hoàn toàn dựa vào bóng lưng kia, trong suốt quá trình, ngoại trừ Hoắc Linh có thể thấy mặt 'chú' ra, những người khác hoàn toàn chỉ dựa vào một bộ đồ lặn mà đoán đó là chú......"

Tôi "á à" một tiếng, âm thầm hồi tưởng những câu đối thoại khi đó, phát hiện thấy đúng thế thật. "Nói vậy thì người dẫn bọn họ đi xuyên qua ám trận không phải chú, mà là một người có bóng lưng, thậm chí cả tướng mạo đều nhang nhác chú?"

Chú Ba gật đầu, sắc mặt trở nên cực kỳ nghiêm túc: "Nếu Tiểu Ca kia nói thật thì chắc chắn là như vậy. Với lại, mày không phát hiện ra sao? Tiểu Ca kia không thấy mặt chú. Hắn vốn có cơ hội nhìn, mà vì sao lại không làm?"

Tôi nhớ lại những tình tiết Muộn Du Bình đã kể, bỗng dưng giật mình: "Hoắc Linh, hắn đã bị Hoắc Linh cản lại!"

Chú Ba gật đầu nói: "Đúng, chính là chi tiết đó. Chú vẫn không biết có chi tiết này. Thật chẳng ngờ trong vài phút ngắn ngủi mà bên đó còn xảy ra chuyện như thế......"

Tôi cảm thấy nhức cả đầu. Tình hình lúc đó quả thật cực kỳ hỗn loạn, tầm nhìn cũng rất thấp, đúng là Muộn Du Bình hoàn toàn có khả năng trông nhầm. Hơn nữa nếu nhìn nhận lại thì kết luận người kia là chú Ba từ đầu đến cuối đều do Hoắc Linh đưa ra. Chỉ có mình cô ta nhìn thấy mặt kẻ nọ. Nếu cô ta là đồng đảng với hắn thì đây có thể là một màn lừa đảo ngoạn mục. Muộn Du Bình và những người khác có lẽ đều đã trách oan chú Ba rồi.

Tôi bỗng nhớ ra Muộn Du Bình lúc ấy đã từng nói câu "Nếu kẻ đó đúng là chú Ba của cậu", phải chăng hắn lúc đó cũng hoài nghi người kia không phải chú Ba?

Có điều nghĩ thử thì lại thấy vô lý. Muộn Du Bình nhìn thấy chú Ba không chỉ mỗi một lần này, mà trước lúc hôn mê hắn cũng từng thấy, hơn nữa còn nhìn rõ mặt chú. Thế thì làm sao dựa vào bóng lưng mà lường gạt hắn được. Chuyện này phải giải thích thế nào đây?

Tôi nói toẹt vấn đề này ra. Chú Ba bèn thở dài bảo: "Cái đó tao cũng chịu. Chắc Tiểu Ca kia trong lúc sắp mất ý thức nhìn nhầm thôi. Mày nghĩ mà xem, trên đường tiến vào lúc nào hắn cũng nghĩ là đang đuổi theo chú, lúc đó lại mơ mơ màng màng, có khi xuất hiện ảo giác cũng chửa biết chừng."

Tôi lắc đầu nói với chú: "Nói thế thì gượng ép quá. Người như Tiểu Ca không dễ hoa mắt nhìn nhầm đâu."

Chú Ba nghiêm nghị đáp: "Nếu thế, thì nhất định hắn đang nói dối. Vì chú có lừa mày đâu."

Nghe xong câu này, tôi âm thầm thở dài. Chuyện tôi lo sợ nhất thế là đã xảy ra. Cho tới tận lúc đó, mỗi khi nghe kể về những sự kiện mà chú Ba và Muộn Du Bình từng cùng trải qua, tôi đều hết sức căng thẳng, sợ rằng tình trạng trống đánh xuôi kèn thổi ngược này sẽ xuất hiện, vì điều đó nói lên rằng trong hai người nhất định phải có một người nói dối.

Có điều nghe hết một mạch thì tôi thấy câu chuyện của hai người cơ bản là giống nhau, nên tôi đã có chút yên lòng, thầm nghĩ rằng cho dù đó không phải sự thật trăm phần trăm, thì hẳn cũng đã tiếp cận với chân tướng gần lắm rồi. Thế nhưng, cả câu chuyện vẫn liền một mạch, đến lúc sắp thông suốt rồi thì cuối cùng lại gặp bế tắc như vậy, thực sự khiến người ta khó chấp nhận. Hơn nữa điểm bế tắc này lại là điểm cực kỳ mấu chốt. Nếu chú Ba không ở bên trong thì người chuốc mê bọn họ là kẻ khác, vậy chú Ba hoàn toàn vô tội rồi. Còn nếu chú Ba ở bên trong thì ngược lại hoàn toàn: chú Ba chính là vai phản diện đại gian đại ác bụng dạ khó lường. Chỉ một điểm như vậy, lại dẫn đến hai kết quả hoàn toàn khác biệt.

Trong hai người, tôi vẫn tin tưởng Muộn Du Bình tương đối nhiều hơn, vì anh ta đã tự kể lại chuyện này trong tình huống hoàn toàn không nhất thiết phải nói gì với chúng tôi. Đối với anh ta, việc có lừa gạt tụi tôi hay không hoàn toàn chẳng có một tý ý nghĩa gì cả. Có điều, lời kể lần này của chú Ba hoàn toàn khác với dạo trước, rõ ràng hết sức, vả lại cũng tìm không ra sơ hở. Nếu chú lừa người, thì làm sao lại có thể biên soạn lời nói dối trơn tru đến mức đó. Tôi cảm thấy lần này rất không có khả năng là chú lừa tôi. Hơn nữa chỉ có tý tẹo mâu thuẫn như thế, nếu chú muốn giấu tôi thì có thể thoải mái lấp liếm cho qua, chứ chẳng cần phải nói ra sự thật trái với lời Muộn Du Bình làm gì. Chú có thể nói mình đi theo vào, sau đó cũng hôn mê, đến khi tỉnh dậy thì bọn họ đều biến mất. Nếu thế thì tôi căn bản cũng không thể tìm ra sơ hở.

Đây dường như là một vụ Rashomon (*), hoàn toàn không có cách nào vén bức màn bí ẩn trong đó. Dường như điều hai người nói đều là sự thật.
(*) Tên mt phim đin nh ca Nht được chuyn th t hai truyn ngn, nói v mt v án mng dưới li k mâu thun ln nhau ca bn người, và cho đến cui phim người ta vn không biết đâu mi là s tht. 

Nghĩ đến đây, tôi đột nhiên nảy ra một suy nghĩ quái lạ. Ưu tiên chứng cứ khách quan, vậy nếu tôi cho rằng chú Ba không giấu giếm tôi, Muộn Du Bình cũng không nói dối tôi, thì liệu có thể xảy ra tình huống mà câu chuyện hai người bọn họ kể đều chính xác được hay không?

Đây là cách tư duy mang hơi hướm Bàn Tử, đơn giản minh bạch, chia sự việc ra làm ba khả năng, chứng minh được hai khả năng đầu rồi, thì khả năng cuối cùng dù cho dù khó xảy ra đến mấy, cũng chỉ có thể là sự thật.

Tôi đem suy nghĩ này nói ra. Chú Ba cũng đang suy xét, vừa nghĩ đã lắc đầu nói: "Sao có chuyện đó được? Để hai lời kể đều chính xác thì trong mộ phải có hai chú Ba mày mới được."

"Hai chú Ba á?" Tôi thầm cân nhắc trong lòng, bụng bảo dạ rằng chuyện này dường như tuyệt đối bất khả thi. Chú Ba không có anh em sinh đôi, cũng nào có biết phân thân, giả thiết này chẳng logic tý nào. Tuy nhiên, nếu muốn phỏng theo lối tư duy của Bàn Tử thì tính logic khỏi cần bàn tới, mà phải liệt kê tất cả các khả năng ra rồi áp dụng phương pháp loại trừ.

Tôi lấy một tờ giấy, bắt đầu viết ra mọi khả năng, nhưng ngẫm nghĩ một lát lại phát hiện, dưới điều kiện tiên quyết là cả hai người đều không nói dối thì chỉ có một kết quả, chính là chú Ba đứng ngoài trận kỳ môn độn giáp, mà người Muộn Du Bình nhìn thấy từ bên trong, là một kẻ mặt mũi tương tự chú Ba.

Vậy vấn đề thật ra không phải là làm thế nào lại sinh ra hai chú Ba, mà là người tướng mạo tương tự chú này từ đâu mà đến? Dùng phương pháp loại trừ thì chỉ còn vài phương án. Một: đó là kẻ xa lạ từ ngoài biển tới. Hai: là người này vẫn luôn ẩn náu trong cổ mộ. Hai giả thiết này đều rất miễn cưỡng. Vậy thì chỉ còn một khả năng: hắn phải là một trong mười người kia.

Giả thiết này cũng có căn cứ. Nhớ lại lời Muộn Du Bình kể liền có thể thấy rằng hai tình huống lúc bọn họ tìm thấy chú Ba đều rất lạ lùng, hoàn toàn có thể là do một trong số những người đi cùng họ xuống biển tạo ra.

Thế nhưng mà tôi chưa từng nghe chú Ba đề cập đến chuyện trong đội khảo cổ có người rất giống chú. Mà giờ lại bàn tới chủ đề này, nếu có người như vậy thì thể nào chú cũng phải nghĩ ra rồi chứ. Với lại ảnh chụp bọn họ tôi cũng đã từng xem qua, mỗi tội tấm ảnh đó mờ như vậy, trông vào ai nấy đều từa tựa như nhau nên chả chắc chắn được.

Thế thì, có phải là do đóng giả không? Tôi nhớ tới thủ đoạn nọ của Tiểu Ca, nhưng vừa nghĩ đã biết là không thể. Mỗi lần đóng giả phải mất ba bốn ngày chuẩn bị, năm đến sáu giờ hoá trang. Trong tình trạng lúc đó kẻ kia làm sao mà cải trang kịp được.

Nghĩ đến đây lại đâm vào ngõ cụt, tôi không khỏi uể oải, thở dài một hơi.

Chú Ba thấy nét mặt tôi biến đổi, liền hỏi tôi đang nghĩ gì. Tôi bèn thuật lại một lượt quá trình suy luận của mình. Chú Ba nghe xong thì cười, bảo tôi sao lại đi học lối tư duy của gã Bàn Tử kia. Đầu óc gã toàn nghĩ xiên nghĩ xẹo.

Nhưng mới cười được vài tiếng thì chú hình như nghĩ ra điều gì, biến cả sắc mặt, sau đó hít một hơi khí lạnh: "Ầy, cũng không hẳn. Mẹ kiếp, chả có nhẽ chuyện này lại là như vậy?"

Tôi vội hỏi chú: "Làm sao cơ?"

Chú Ba sắc mặt xám ngoét: "Mày đừng hỏi. Gã mập này có bản lĩnh phết. Nghe mày phân tích như vậy, hình như chú đã rõ chuyện này là thế nào rồi. Nhưng...... nếu quả thực đúng là như vậy, thì vấn đề này cực kỳ bất bình thường, thậm chí còn hơi quái đản."

Tôi vội giục chú nói cho mau. Chú Ba bèn bảo: "Mày nói trong cổ mộ kia còn có một người bề ngoài giống chú, rất có lý. Nhưng chú cảm thấy kẻ này cũng không cần quá giống. Mày nghĩ xem, vị Tiểu Ca kia trúng độc, thần trí ắt đã mơ hồ, hơn nữa cách lúc hôn mê chỉ có vài giây, chỉ cần hơi giống một chút là có thể nhầm lẫn rồi."

Tôi gật đầu: "Đúng. Thế nhưng trong đội hình của chú lại có người như vậy sao? Nếu có kẻ đó thì nhiều khả năng chú đã để ý từ lâu rồi chứ. Dù sao chuyện trên đời này có hai người giống nhau cũng rất kỳ lạ mà."

Nét mặt Chú Ba hết sức cổ quái. Chú hít một hơi, lắc đầu nói: "Mày nhầm. Thật ra có lúc chuyện trên đời có hai người giống nhau chẳng hề kỳ lạ tí nào đâu. Mà trong đội khảo cổ năm đó, quả thực có một người như thế, giống chú đến bảy phần, nhưng mọi người đều không thấy kỳ lạ."

Tôi "a" một tiếng, tự nhủ sao mà thế được, rồi vội hỏi: "Ai vậy chú?"

Chú Ba trợn mắt nhìn tôi đáp: "Đương nhiên chính là Giải Liên Hoàn."


Chương 24. Người chết đi m sng dy

Lập tức tôi sởn gai ốc đầy mình, gần như rụt cả người lại. Tôi thật sự không thể ngờ chú Ba lại nói ra cái tên đó.

Choáng váng hồi lâu tôi mới phản ứng lại được, lắp bắp hỏi chú: "Sao có thể?"

"Cái gì mà không thể? Mẹ kiếp bọn tao là anh em họ đó, dạo ấy có nhiều điểm giống nhau dữ lắm. Đặc biệt là trong cái thời buổi đó, mọi người ai nấy đều gần như là cùng một kiểu quần áo tóc tai. Nếu muốn giả thuyết này đứng vững được, thì chỉ mỗi hắn mới có điều kiện phù hợp thôi."

"Nhưng mà, lúc đó chẳng phải là hắn đã chết rồi sao?" Tôi hỏi mà líu cả lưỡi.

Chú Ba hít vào một hơi rất chi thâm thúy, sau đó nằm đờ ra một lát rồi mới cau mày kể: "Quả có vậy. Khi đó hắn chắc chắn đã chết thật rồi. Lúc được phát hiện, thi thể đã cứng đờ, ngâm nước đến trương phềnh cả lên. Bộ dạng như thế thì tuyệt đối không có khả năng cứu sống lại được nữa. Cơ mà ngoại trừ cách giải thích này ra, chú mày chẳng nghĩ được hướng giải quyết nào khác có thể chứng minh là cả tao lẫn cậu Tiểu Ca kia đều trong sạch cả. Mà nhắc lại thì, con thuyền chở thi thể Giải Liên Hoàn sau này cũng không hề cập bến. Tính gộp cả mấy ngư dân kia nữa, nhóm người đó cứ thế biến mất tăm trên biển. Hắn được coi như đã mất tích." Chú ngừng một lát rồi lại bảo: "Kỳ thực, chú đôi khi cùng từng nghĩ, rằng có khi nào mình đã quá coi thường Giải Liên Hoàn rồi không?"

"Ý chú là sao?" Tôi thấy trong lòng có phần buốt giá: "Chú muốn nói là hắn giả chết á?"

Chú Ba gật đầu: "Chú đã điều tra hết tiểu sử của mọi người, đều không có gì khả nghi hết. Chú bèn suy đến tận nước này: liệu có phải Giải Liên Hoàn lúc đó chưa chết, mà đã bí mật trở về, cấu kết cùng Hoắc Linh để hoàn thành âm mưu nọ hay chăng? Như thế thì mọi chuyện đều sẽ có lời giải. Có điều lúc đó người kiểm tra thi thể hắn chính là chú, chú vẫn còn nhớ như in. Thi thể kia tuyệt đối không thể là chết giả, cho nên về sau chú mới loại trừ khả năng này. Nhưng bây giờ nghe mày nói thế, chú lại cảm thấy nếu hắn không chết, thì ngược lại mọi chuyện đều có thể giải thích được rồi."

Tôi lắc đầu: "Nếu chú đã xác định là hắn chết rồi thì chúng ta đừng tính đến khả năng này nữa. Gã Giải Liên Hoàn này dù sao cũng đâu phải cương thi. Vậy nhất định là phải có nguyên nhân khác."

Chú Ba thở dài, bảo với tôi rằng vấn đề này thôi cứ tạm thời bỏ qua đừng nghĩ nữa. Hiện tại thông tin chúng tôi nắm được quá ít, vị Tiểu Ca kia lại không có ở đây, bàn bạc thêm nữa cũng chẳng đi đến chỗ nào, có lẽ cứ để sau hẵng bàn tiếp. Đợi đến mọi chuyện đều đã được kể ra, chúng tôi sẽ phân tích lại một lượt từ đầu, không chừng sẽ thu hoạch được gì đó.

Tôi cũng cảm thấy nên như vậy. Một bên là lời kể của chú Ba, phía còn lại là lời kể của Muộn Du Bình, toàn bộ đều chỉ là lời nói. Không có thứ gì đóng vai bên thứ ba, dẫu muốn suy xét thì cũng chỉ có thể đoán mò. Vì thế tôi lại để chú Ba nói tiếp.

Những chuyện về sau chú Ba kể rất ngắn gọn. Sau khi ra khỏi huyệt mộ dưới đáy biển, chú bắt đầu điều tra toàn bộ sự việc. Bởi vì đã biết kế hoạch của Cầu Đức Khảo thông qua Giải Liên Hoàn, chú bèn coi việc điều tra kẻ nọ là mấu chốt để giải câu đố bí ấn này, đồng thời cũng tìm kiếm tung tích của những người đã bị mất tích kia. Về sau mặc dù chú đã có mấy lần tiếp xúc với Cầu Đức Khảo, nhưng từ đầu đến cuối Cầu Đức Khảo vẫn không hề hở ra cho chú biết bất cứ tin tức gì, cho đến tận vụ Thất Tinh Lỗ Vương Cung, sau khi Cầu Đức Khảo lại thất bại lần nữa.

Lúc đó Cầu Đức Khảo phát hiện ra rằng, từ nơi toàn bộ đội ngũ của lão bị tiêu diệt sạch sẽ, đám người của chú Ba lại có thể thoát thân mà không chịu tổn thất quá nhiều. Lão bắt đầu ý thức được rằng có lẽ sai lầm căn bản nằm ở chính cách làm của lão. Vì thế cho nên lão mới tìm gặp chú Ba. Hai người từng có một buổi thảo luận rất dài, chính là về những nội dung chú Ba kể cho tôi lúc nãy.

Tuy nhiên chú Ba đúng là hung thần của Cầu Đức Khảo. Chú cùng Cầu Đức Khảo hứa hẹn hợp tác, một lần nữa tiến vào huyệt mộ dưới đáy biển, lần này mục đích là để chụp hình bích họa. Thế nhưng cũng giống như những gì Cầu Đức Khảo đã mưu tính vào năm đó khi lão phản bội ông tôi ở Trường Sa, chú Ba cũng chỉ lợi dụng nguồn lực của Cầu Đức Khảo. Chú biết rõ mục đích của Cầu Đức Khảo là gì. Chú tiến vào cổ mộ, cưỡng bức kẻ đồng hành nói ra rất nhiều bí mật. Lợi dụng những tin tức này, chú biết được mục tiêu kế tiếp của bọn họ chính là Vân Đỉnh Thiên Cung. Thế là chú bắt đầu chạy đua cùng bọn họ.

Khoảng thời gian đó còn có khá nhiều lần đụng độ ly kì, nhưng viết ra thì khó tránh khỏi lan man, nên tôi chỉ đề cập một phần là đủ.

Mà về sau đám người A Ninh đến tìm tôi, hoàn toàn không phải là do sự sắp xếp của chú Ba. Chú nói kỳ thật tôi chỉ cần ngẫm lại thì sẽ thấy ngay rằng vốn đã không thể có chuyện chú sai bọn họ đến tìm tôi. Với trình độ của tôi, nếu đảm nhận làm hậu phương cho chú thì chắc chắn chỉ có đường chết, chú sao có thể làm hại tôi cơ chứ? Chính xác là tôi đã bị A Ninh lừa rồi. Lúc đó bọn họ cho rằng tôi có thể thoát thân khỏi Lỗ Vương Cung thì hẳn cũng là một tay cao thủ, cho nên mới dùng trò đó gạt tôi.

Chú Ba nói, nguyên nhân lúc đó chú không muốn để tôi biết nhiều như thế, chính là vì sợ tôi bị liên lụy rồi cuốn vào chuyện này. Đáng tiếc là những việc xảy ra tại Lỗ Vương Cung Cầu Đức Khảo chắc chắn cũng nắm vững như lòng bàn tay, cho nên sau đó những người năng động trong vụ Lỗ Vương Cung đều được bọn họ liên lạc cả. Tôi là bị lừa vào tròng. Bàn Tử thì được thuê. Vị Tiểu Ca kia khả năng cũng là sau khi đã biết chuyện này, mới quyết định trà trộn vào đội ngũ của bọn họ.

Những chuyện sau đó, tôi đã biết rõ. Sau khi vớ được tấm bích họa, để đến Vân Đỉnh Thiên Cung sớm hơn một chút so với đám người của A Ninh, bọn chú liền xuất phát luôn. Nhưng một mình trộm cả cái đấu lớn như vậy bao giờ mà chả chột dạ. Thế là chú bèn để lại lời nhắn cho Phan Tử. Chú cũng không định bụng để tôi đi cùng, nhưng hiển nhiên là đã bị gã Sở ca kia tiết lộ thông tin, ton hót hết mọi chuyện với Trần Bì A Tứ. Lão già này liền ngáng đường ngang xương, còn sai gã Sở ca kéo luôn cả tôi đi cùng, dự định đến lúc đó sẽ dùng tôi để uy hiếp chú Ba. Khi ấy cái đám kia toàn người rất lợi hại, bọn họ chỉ đặc biệt tìm đến con gà mờ nhát cáy tôi đây là để làm lốp xe dự bị mà thôi.

Chú Ba nói đến đây bèn lắc đầu cảm thán: "Người đã hợp tác nhiều năm như vậy, vừa thấy tao làm ăn không được liền lập tức đầu quân ngay cho Trần Bì A Tứ. Mẹ kiếp thật chẳng tốt lành gì. Giờ phải ngồi tù, âu cũng là quả báo."

Cầu Đức Khảo thì phản bội ông tôi. Chú Ba thì phản bội Cầu Đức Khảo. Sở ca lại phản bội chú, sau đó là A Ninh phản bội lại chúng tôi. Con người, quả thật là loài động vật đáng sợ.

Những gì chú đã trải qua trong Vân Đỉnh Thiên Cung cũng vô cùng kinh khủng. Đến cuối cùng chỉ còn lại một mình, chú cũng là lần theo manh mối mà những bức bích họa kia cung cấp, thẳng một đường mà đi, thế nhưng cuối cùng trúng chiêu, được chúng tôi cứu về. Nếu muốn kể chi tiết thì cũng ngoạn mục lắm, nhưng không cần liệt kê tỉ mỉ ở đây làm gì nên chú Ba chỉ nhắc lại qua loa. Do trước đó tôi mới nghe chú kể chuyện mà đã mướt mồ hôi lạnh đầy mình rồi, cho nên lúc đó cũng không dám nghĩ ngợi nhiều. Rất lâu sau này tôi mới cảm thấy, dường như ở chỗ này chú Ba hãy còn che giấu điều gì. Nhưng đó là chuyện mãi sau này mới xảy ra.

Chương 25. Li hé m

Đến đây thì tất thảy những gì chú Ba biết đã được kể ra hết ngọn nguồn ngóc ngách.

Nói xong câu chuyện, hai chúng tôi đều thở phào một hơi nhẹ nhõm. Chú Ba đại khái có cảm giác trút được bầu tâm sự, còn tôi thì cứ như vừa xem hết một bộ phim.

Hai chúng tôi lại im lặng. Chú Ba ra ngoài đi vệ sinh, còn tôi thì nhắm mắt, nghiền ngẫm lại một lượt đầu đuôi câu chuyện vừa mới được kể.Vài phút sau, tôi đã sắp xếp các sự kiện đâu ra đấy.

Tuy rằng toàn bộ chuyện này chưa phải là đã hoàn toàn sáng tỏ trăm phần trăm, nhưng những căn nguyên hậu quả giữa Cầu Đức Khảo và chú Ba thì phần lớn đã rõ ràng. Chỉ còn vài ba vấn đề là chưa rõ mà thôi.

Về phía chú Ba, những trải nghiệm ở ngôi mộ dưới đáy biển kia đối với chú chính là sự khởi đầu của cơn ác mộng, nhưng cũng chính là một bước ngoặt biến chú từ một thằng thảo khấu lưu manh, dần trở thành một tay lão luyện. Có thể nói, để tìm kiếm đội khảo cổ đã biến mất trong ngôi mộ cổ, chú Ba tôi đã bỏ ra cả cuộc đời. Không nói đến ngần ấy tiền bạc lẫn thời gian, chỉ riêng một chuyến Vân Đỉnh Thiên Cung thôi, để trì hoãn hành trình của nhóm A Ninh, chú đã dứt khoát thẳng tay vứt bỏ hết cơ đồ sự nghiệp. Ngoại trừ vài người đặc biệt trung thành, còn lại toàn bộ đám người làm ở Trường Sa đều đã chạy tứ tán. Cần phải nói rằng, trong đám hậu duệ Lão Cửu Môn thì chú Ba phải thuộc hàng nhân vật số một số hai, vậy mà giờ tất cả đã tan thành mây khói.

Giờ đây chính bản thân chú cũng rơi vào cảnh sống dở chết dở, ở cái tuổi mà đáng lý ra chú phải được nghỉ hưu từ sớm rồi. Đương nhiên xui xẻo nhất vẫn cứ là tôi, một cổ hai tròng chịu đựng giày vò cả về thể xác lẫn tinh thần, để rồi sau khi nghe thủng vấn đề thì lại phát hiện ra là nó hầu như chả liên quan tí gì đến mình. Giờ ngẫm lại mới cảm thấy, chú Ba lúc trước lừa tôi chắc đúng là muốn tốt cho tôi thật. Nếu ngày đó sớm biết dòng nước này sâu đến thế, chắc bản thân tôi đã chẳng dám nhảy vào.

Tin tức quan trọng nhất mà chú Ba cung cấp cho tôi là thế này: lúc đó trên thuyền của bọn chú, ngoại trừ chú và Giải Liên Hoàn, hình như có kẻ thứ ba biết đến sự tồn tại của ngôi mộ dưới đáy biển. Kẻ đó hiển nhiên có quan hệ với Hoắc Linh, hơn nữa hắn rõ ràng còn muốn khử cả Giải Liên Hoàn lẫn chú.

Mà kẻ kia nhất định phải có mặt trong số mười người năm đó, vì thời điểm cuối cùng lúc tiến vào huyệt mộ đáy biển thì trên mặt biển không hề có thuyền bè, mà cũng chỉ có mấy người đó xuống thuyền.

Như vậy, bọn họ tổng cộng có mười người, loại trừ chú Ba, Văn Cẩm, Muộn Du Bình, Hoắc Linh, Giải Liên Hoàn (đã chết) và một người đưa xác hắn về, thì chỉ còn lại nhóm bốn người Lý Tứ. Nếu điều Muộn Du Bình nói là sự thật, vậy kẻ đó có lẽ là một trong số bốn người. Trong bốn người này còn có một phụ nữ, vậy thực ra thì chỉ có ba người để lựa chọn.

Nếu không phải là Giải Liên Hoàn hóa cương thi trở về thì kẻ thần bí nọ dĩ nhiên là một trong số ba người kia. Đương nhiên, ở đây còn có một nghi vấn, đó là rốt cuộc Muộn Du Bình đã nhìn thấy ai trước lúc hôn mê. Vấn đề này quỷ quái vô cùng. Nếu miễn cưỡng giải thích là trông gà hóa quốc, thì mặc dù cũng có thể cho qua, nhưng tóm lại vẫn cảm thấy có chút vướng mắc. Lúc nào về tôi còn phải nghĩ kỹ lại đã.

Về phía Cầu Đức Khảo, chính là vụ khảo cổ năm đó ở Tây Sa của lão. Cầu Đức Khảo không chịu hé răng một lời, chứng tỏ sự việc này là mấu chốt quan trọng có liên quan đến cốt lõi của mọi bí ẩn. Mà sở dĩ lão lại chịu kể tất cả những chuyện lúc trước, giờ xem ra là bởi vì đó toàn là những thứ râu ria không quan trọng. Điều lúc đó lão theo đuổi chỉ là ý nghĩa ẩn trong mảnh sách lụa Chiến Quốc, là chuyện nằm trên phương diện học thuật.

Thế nhưng rõ ràng hiện tại mục tiêu của lão đã thay đổi. Ở đây, tôi phát hiện ra một điểm mà chú Ba chưa từng nghĩ tới: mục đích thực sự của Cầu Đức Khảo là gì? Hiện giờ mọi thứ đều bị phủ một màn sương mù dày đặc. Chụp ảnh người chết, chụp hình bích họa, vào Lỗ Vương Cung, rồi Vân Đỉnh Thiên Cung, chắc chắn đây không phải là để nghiên cứu khoa học. Rốt cuộc lão ta muốn làm cái gì?

Cầu Đức Khảo đã là một lão già đã quá chín mươi, vậy mà lão vẫn còn nhúng tay vào vụ này, chứng tỏ độngc cơ cửa lão không phải những thứ như tiền bạc hay thanh danh địa vị. Chuyện này thật sự có điểm bất thường.

Chú Ba đi vệ sinh về rồi, tôi bèn đem những điều mình nghĩ được ra kể lại với chú. Chú gật gù, bảo tôi rằng: "Thật ra chú có nghĩ tới, nhưng vụ này thật sự quá phức tạp, chú không sao mà trình bày được. Mày xem đấy, những chuyện sau khi lão Cầu Đức Khảo này bắt đầu kế hoạch Tây Sa, chú hoàn toàn không nhìn thấu được. Có điều, nếu mày cẩn thận mà nghĩ, thì vẫn có thể cảm thấy một chút manh mối. Lỗ Vương Cung, huyệt mộ đáy biển, Vân Đỉnh Thiên Cung, đó đều là những nơi Uông Tàng Hải từng đến. Từ ngoài nhìn vào, có thể thấy rất rõ ràng là bọn họ dường như đang lần theo dấu chân Uông Tàng Hải. Chú cũng cảm thấy có khi họ đang tìm kiếm cái gì đó, một thứ mà rất có thể Uông Tàng Hải đã để lại trong mấy ngôi mộ cổ kia."

"Đồ vật để lại trong cổ mộ à?" Tôi ngẫm nghĩ: "Chẳng lẽ là xà mi đồng ngư sao?"

Năm đó, để truyền lại bí mật của Đông Hạ cho đến ngày nay, Uông Tàng Hải đã sử dụng cách thức này, cất giấu xà mi đồng ngư ẩn chứa mật văn vào trong bảo nhãn của Đại phong thủy, hy vọng sau này chúng có thể được những kẻ trộm mộ phát hiện ra. Cho nên trong mấy ngôi mộ cổ này đều có cất giấu xà mi đồng ngư.

Chú Ba lắc đầu nói không rõ nữa, nhưng cảm giác có vẻ không giống lắm, hình như là thứ gì khác cơ. Bọn chúng tiến vào cổ mộ dưới đáy biển nhiều lần, tựa hồ chính là để nắm được manh mối về những nơi Uông Tàng Hải đã đến, sau đó mới đi tìm.

"Thật ra chú Ba mày vốn đâu có quan tâm xem bọn chúng muốn làm cái gì. Chú Ba mày chỉ muốn biết, nhóm người mất tích dưới đáy Tây Sa kia, rốt cuộc đã có chuyện gì xảy ra với họ? Bọn Văn Cẩm đã đi đâu mất rồi? Chú nhắm vào Cầu Đức Khảo, cũng vì vụ Tây Sa này chắc chắn phải có liên quan đến mục đích của lão. Tiếc nỗi, vấn đề này càng tìm hiểu lại càng rối rắm." Chú Ba nói xong thì thở dài, "Về sau này, chú cũng chẳng biết bản thân mình đang tìm cái gì nữa. Chú chỉ có thể cố hết sức để nhanh hơn bọn chúng. Phải tìm được thứ bọn chúng muốn trước một bước, thế mới có thể uy hiếp lão già quỷ quyệt kia để lão khai hết mọi chuyện ra. Thật đáng tiếc, chú Ba con rốt cuộc đã già rồi, rất nhiều chuyện đã lực bất tòng tâm."

Tôi vỗ vỗ an ủi chú, nói: "Đầu mối Đại phong thủy kia hoàn thành rồi, đến Vân Đỉnh Thiên Cung là điểm kết thúc. Lần đó mục đích của bọn A Ninh rõ ràng là Cửu Long đài thi quan, nhưng khi ấy tình hình hỗn loạn bọn họ vẫn chưa đạt được. Cháu nghĩ bọn họ có thể sẽ lại vào lần nữa. Dù có thế nào, Vân Đỉnh Thiên Cung phải là trạm cuối cùng rồi. Bọn họ vào đó, cho dù có tìm thấy hay không, vấn đề này vẫn có thể đến được hồi kết. Chú Ba, chú cũng đừng cố chấp quá nữa. Có những việc chú đã làm hết sức, thì thôi đừng nghĩ ngợi nhiều."

Chú Ba cười khổ: "Hồi kết à? Từ đầu chính chú cũng nghĩ vậy đấy. Nhưng mà, xem ra bây giờ nói điều này vẫn còn quá sớm." Nói xong, chú bèn cầm cuộn băng từ Muộn Du Bình gửi đến, vỗ vỗ, "Chuyện này đảm bảo là chưa xong đâu. Để xem trong đây có cái gì rồi hẵng nói."

Chương 26. Xut vin

Chuyện trò liên tục với chú Ba đã gần hai tiếng đồng hồ, nước lọc cũng uống cạn hai ấm rồi. Sau khi kể xong xuôi câu chuyện, hai người chúng tôi đều cảm thấy bải hoải mỏi mệt vô cùng, cả tinh thần lẫn thể xác. Sức khỏe chú Ba còn chưa hoàn toàn hồi phục, nói xong liền thấy váng đầu. Tôi cũng không muốn quấy rầy chú thêm nữa, bèn sắp xếp mấy đồ đạc bên người chú một chút, thay một bình trà mới nước sôi mới rồi mới tự động rời đi.

Cậu người làm chú Ba sai đi mua đầu video vẫn chưa trở lại. Tôi cũng đoán rằng đi mua thứ đó chắc khổ muốn chết đi, ngừng sản xuất lâu quá rồi, mà cho dù mua được, cũng chắc gì nó đã chạy.

Vừa nãy nghe kể chuyện xong tôi quên béng mất vụ băng ghi hình, giờ nhớ đến thì không khỏi cảm thấy hãi hùng. Lúc trước nghe chú Ba than thở, nói rằng chú sẽ còn tiếp tục bị chuyện này giày vò, thấy giọng chú vừa mệt mỏi vừa bất lực, tôi cũng thấy không thoải mái.

Về chuyện của Muộn Du Bình, những gì chúng tôi biết gần như là con số không. Năm đó là hắn tình cờ có mặt trên thuyền hay cũng vì có mục đích khác mà trà trộn vào đội khảo cổ, ngay cả đến điều này chúng tôi còn không biết. Hơn nữa, tay Muộn Du Bình này không giống với chú Ba, một khi hắn đã không muốn nói cái gì thì dù có bức bách thế nào hắn cũng chẳng thèm phản ứng. Tuy chú Ba có cho tôi biết chút ít về chuyện của hắn, nhưng xét từ phương diện này thì những thứ qua loa mà chú Ba kể không thể tính là chân tướng của câu chuyện được. Thực ra, chú cũng có biết nhiều hơn tôi là mấy đâu.

Nghĩ đến đây, ruột gan tôi vừa nhẹ nhõm đi được tý chút lại bắt đầu thấy áp lực.

Xử lí xong việc, cậu người làm của chú Ba mới trở về, nhưng lại chẳng mua được đồ. Giờ này chợ búa người ta đều đóng cửa hết sạch, chỉ đành để mai tính tiếp.

Lâu lắm rồi không nói chuyện với chú Ba, lại gỡ được khúc mắc trong lòng, tâm tình tôi bắt đầu tốt lên trông thấy. Tối đến, tôi liền cùng mấy người chú Ba trốn viện ra ngoài, tìm một quán nhậu lề đường, làm một chầu rượu chè đã đời. Ăn cơm người ốm suốt bao lâu, mãi mới có dịp thưởng thức mấy món có mùi có vị một chút, chú Ba sung sướng lắm, tay rượu tay thuốc rốt cuộc cũng được một phen xả láng.

Lúc quay về, chú Ba đi làm thủ tục xuất viện, miệng nói sẽ không bao giờ ở lại bệnh viện nữa đâu, rồi bảo tôi lo liệu giúp chú một phòng ở nhà nghỉ.

Tôi uống có hơi quá chén, sau khi về tới nhà nghỉ, giúp chú Ba đặt phòng, tôi bèn tắm táp sạch sẽ, rót cho mình một chén trà thật đặc rồi sửa soạn đi ngủ.

Nhưng tắm rửa xong, mãi vẫn không ngủ được, tôi bèn mở máy tính, lục tìm tấm ảnh cũ mèm chụp lúc chú Ba trước khi xuất phát đến Tây Sa ra xem.

Bức ảnh này tôi xem cả trăm lần rồi, nhưng ảnh chụp đen trắng, ngoại trừ vài người quen còn có thể nhận ra, còn lại những người khác rất khó để phân biệt rõ ràng. Vả lại chú Ba cũng chưa từng chỉ cho tôi biết ai với ai. Trên ảnh, chú Ba gầy gò điềm đạm, chẳng có chỗ nào giống một thổ phu tử hết, mà Muộn Du Bình cũng cực kỳ giống một cậu sinh viên bình thường. Tôi thử tìm Giải Liên Hoàn trong bức ảnh, quả có phát hiện ra một người nhìn từa tựa chú Ba tôi, chẳng biết có phải hắn hay không. Tôi không khỏi bùi ngùi. Nào có ai ngờ đằng sau một bức ảnh bình thường như vậy lại ẩn giấu nhiều sự việc đến thế.

Nhìn ngắm nửa ngày, thấy rằng căn bản chẳng có cách nào nhìn ra được điều gì từ tấm ảnh này, tôi bèn dùng modem dial-up của khách sạn để vào trang web của công ty chuyển phát nhanh đã gửi bưu kiện của Muộn Du Bình đến cho tôi, nhập mã số để tra cứu thông tin của kiện hàng chuyển phát nhanh này.

Rất nhanh đã có kết quả tìm kiếm. Tôi kéo chuột đến ô ghi địa điểm gửi hàng, thấy nó không bị để trống mà có ba chữ đề tên một thành phố: Cách Nhĩ Mộc. Cuốn băng hình này được gửi đi từ một địa phương có tên là Cách Nhĩ Mộc.

Tôi liền sửng sốt, tự hỏi đó là nơi nào? Tôi liền tra Google một lúc thì lại càng giật mình hơn. Hóa ra đó là một thành phố ở phía Tây, thuộc tỉnh Thanh Hải.

Thanh Hải? Muộn Du Bình đến đó từ bao giờ? Tôi bắt đầu nghi ngờ. Tên này hành động cũng mau lẹ quá đi, thoắt cái đã chạy tới miền Tây rộng lớn, chả lẽ hắn định đi giúp sức cho sự nghiệp đổ đấu ở miền Tây chăng? Có điều Thanh Hải đâu thuộc địa bàn của thổ phu tử. Đó là khu vực có các dân tộc thiểu số tập trung sinh sống, chỉ có bọn đầu cơ buôn bán xác ướp với tội phạm buôn lậu di vật khảo cổ quốc tế mới thường lui tới mà thôi. Hắn có thể đến đó làm gì nào? Giúp người ta đào giếng chắc?

Thế rồi hắn lại còn gửi cuộn băng hình cho tôi, chuyện này có bắc tám cái thang tre cũng chẳng thấy có tí liên quan nào.

Tôi tra cứu một ít tài liệu về Cách Nhĩ Mộc, tìm hiểu một chút về lịch sử của nơi này thì lại càng ngạc nhiên hơn khi phát hiện ra Cách Nhĩ Mộc là một khu đô thị mới, được xây dựng khi bộ đội giải phóng đi xây sửa đường xá, bốn phía xung quanh đều là sa mạc. Muộn Du Bình mà ở đó thì tôi thực sự nghĩ không ra hắn có thể làm gì. Vả lại hắn còn gửi băng hình từ đó về đây, rốt cuộc nội dung là cái gì nhỉ?

Mẹ kiếp, tôi bắt đầu có phần sốt ruột, bỗng chốc sự hứng thú của tôi đối với cuộn băng hình nọ ngày càng thêm mãnh liệt.

Hớp mấy ngụm trà đặc để trấn áp hơi men xong, tôi liền tổng hợp lại những thông tin mà hôm nay đã nghe được rồi gửi cho mấy người bên A Ninh. Tôi và mấy người này quen nhăng nhố với nhau, hy vọng bọn họ cũng sẽ xem xét giúp tôi, biết đâu lại có phản hồi nào hữu dụng. Tuy chú Ba có dặn tôi là không được kể cho người khác, nhưng tôi nghĩ, nói cho bọn người của Cầu Đức Khảo cũng không thành vấn đề gì lớn. Hơn nữa những nội dung tương đối nhạy cảm mà không quan trọng tôi đều đã lược bỏ hết rồi. Tôi còn hỏi bọn họ xem gần đây công ty có kế hoạch vào Vân Đỉnh Thiên Cung lần nữa hay không.

Làm xong mấy việc này thì chất cồn bắt đầu phát huy tác dụng. Người tôi nhanh chóng rũ ra, mắt lờ đờ rồi chìm vào giấc ngủ. Tôi đánh một giấc yên ổn vô cùng, không hề mộng mị mà ngủ thẳng một lèo đến tận sáng bảnh mắt hôm sau, tôi mới bị tiếng chuông điện thoại đánh thức.

Tôi nhận điện thoại, đó là cậu người làm của chú Ba gọi tới. Cậu ta nói bọn họ đã xuất viện, chú Ba đã sang ở ngay sát vách phòng tôi. Đầu video cũng đã mua được rồi, họ gọi tôi sang đó cùng xem.

Chương 27. Hình nh

Đầu video là do cậu người làm bới được từ chợ đồ cũ ở bãi tàu mang tới, hãng Panasonic. Lúc tôi vào đến phòng chú Ba thì cậu ta đang lúi húi cắm máy. Tôi thấy trên sô pha còn đặt hai chiếc dự phòng giống y chang, là vì sợ lỡ hỏng hóc gì lại rách việc. Nhưng cũng may, hàng nhập khẩu thời đó chất lượng tốt lắm, thử cả ba cái đều là dùng được. Tôi liếc qua một cái máy dự phòng, cũ kỹ nặng nề, nhưng đồ thời đó toàn là hàng xịn, không giống như đĩa DVD thời nay, quăng lên một cái là thành đĩa ném đồ chơi cho chó đợp luôn.

Suốt trong lúc cắm đầu video, chú Ba vẫn một mực không mở miệng, chỉ bảo tôi ngồi xuống rồi phì phèo hút thuốc hết điếu nọ lại đến điếu kia, chẳng rõ đang âm thầm suy tính những gì.

Cơn đau đầu do say rượu của tôi cũng đỡ dần. Tôi cảm thấy có hơi căng thẳng, thi thoảng lại nghĩ quàng nghĩ xiên, suy đoán xem rốt cục trong hai cuốn băng đó đã ghi lại những hình ảnh gì. Tôi đã nghĩ đến cả Tây Sa, nhưng thời điểm bọn họ đến Tây Sa thì làm gì có chuyện mang thiết bị ghi hình đi theo. (Dạo đó thiết bị loại này tương đối đắt tiền, trong nước vẫn còn phổ biến loại máy quay dùng phim nhựa, cuộn băng vẫn phải dùng tay quay.) Cho nên nội dung trong băng ghi hình chắc chắn không phải được quay trong vụ Tây Sa đó. Tương tự, nội dung cũng không thể là phía sau cánh cửa thanh đồng được. Trừ hai nơi này ra, vậy trong băng hình sẽ là cái gì nhỉ? Thực sự chẳng có tí manh mối nào.

Nối xong được cái đầu máy với tivi, bật công tắc điện lên, tôi lấy một cuộn băng định bỏ vào. Có điều lúc nhét nó vào cửa băng của đầu máy video thì tôi lại do dự, không hiểu sao ruột gan bỗng chốc rối bời cả lên, tôi bèn liếc sang nhìn chú Ba.

Chú Ba khoát khoát tay với tôi, bảo: "Cho vào đi chứ nhìn tao làm gì? Mẹ kiếp, mày còn phải sợ hắn bò từ TV ra chắc?"

Lúc ấy tôi mới đẩy cuộn băng vào. Đầu máy kêu loạch xoạch, bắt đầu chuyển động. Tôi quay lại ngồi xuống mé giường. Rất nhanh sau đó, trên màn hình nhấp nháy đầy muỗi. Chú Ba ngừng hút thuốc, ném tọt đầu mẩu vào trong cái ổng nhổ. Hai người chúng tôi cộng thêm cậu người làm của chú đều có phần căng thẳng mà nhổm người ngồi thẳng lên.

Sau hơn mười giây muỗi bay vù vù, trên TV mới bắt đầu xuất hiện hình ảnh. Tuy là tivi màu nhưng hình ảnh lại đen trắng, vậy chắc là do băng rồi. Hình ảnh mới đầu rất mờ, sau mới rõ dần lên.

Đó là một gian phòng gỗ kiểu cổ. Chúng tôi còn thấy cả sàn nhà lát ván, mà hình ảnh cứ không ngừng lắc lư, rõ ràng là người hoặc vật đỡ camera không được ổn định cho lắm. Trong nhà, chúng tôi thấy một cánh cửa sổ trổ ra trên mảng tường phía sau. Cảnh quan bên ngoài mờ tịt, hình như là ban ngày vì máy quay hơi ngược sáng.

Chú Ba và tôi quay sang nhìn nhau. Hình ảnh này có vẻ quần chúng quá, chúng tôi chẳng thể ngờ sẽ thấy thứ như vậy. Lẽ nào đây là video blog tự quay? Đợi lát nữa sẽ thấy Muộn Du Bình vừa húp mỳ vừa đi ra, quay mặt vào màn hình nói rằng đã lâu không gặp, mọi người dạo này thế nào rồi, vân vân chăng?

Phía dưới cửa sổ có kê một chiếc bàn làm việc kiểu cũ, trông có vẻ giống mấy thứ đồ dùng cổ lỗ sĩ trong những bộ phim cách mạng. Trên mặt bàn chất chồng đồ đạc. Nào tài liệu, đèn bàn, còn có cả một chiếc điện thoại.

Kiểu điện thoại này tương đối cũ, tuy chưa phải loại già cỗi đến rụng răng. Thời gian ghi hình đoạn phim này hẳn là sau thập kỉ 90 của thế kỉ 20. Dĩ nhiên hiện tại vẫn có nhiều gia đình dùng loại điện thoại này, cho nên rốt cuộc cũng không thể đoán chắc đó là thời nào, chỉ khẳng định được rằng đó không thể là trước những năm 90.

Tiếp theo hình ảnh vẫn nguyên xi quay cảnh trong căn phòng đó, thật cứ y như tranh tĩnh vật. Chúng tôi đợi được một lúc rồi mới nhận ra rằng máy quay được giữ nguyên ở một vị trí, giống như những pha quay cố định trong phim điện ảnh, chẳng hề xê dịch.

Nói vậy thì chẳng biết hình ảnh bất động này sẽ còn kéo dài đến bao lâu, chúng tôi cũng không thể cứ ngây ra đó mà nhìn. Chú Ba liền ấn nút tua nhanh. Tua qua đến đoạn chừng hơn 20 phút, thì bỗng có một cái bóng màu đen từ trong phòng lướt vèo qua.

Tôi với chú Ba giật nảy mình.

Chú Ba vội vàng nhấn nút quay chậm tua ngược lại, hóa ra là một người từ ngoài ống kính bước vào trong khung hình. Chúng tôi còn nghe thấy có tiếng đóng mở cửa, hẳn là có người từ bên ngoài trở về phòng. Nhìn kỹ lại thì người vừa đi vào là một phụ nữ, trông không rõ bao nhiêu tuổi, nhìn loáng thoáng thấy dáng dấp cũng khá, tóc buộc túm đuôi ngựa.

Chú Ba lập tức bồn chồn hẳn. Chú bước lên phía trước, gần như dán cả vào màn hình TV.

Thế nhưng cô gái kia đi lại như bay, thoắt cái đã lướt qua ống kính sang phía bên kia, rồi biến mất khỏi màn hình.

Tôi thấy sắc mặt chú Ba bỗng trở nên bất ổn, định hỏi chú có chuyện gì, nhưng chú lại khoát khoát tay với tôi, ý bảo tôi đừng nói chuyện.

Thời gian tiếp tục bị tua nhanh. Năm phút sau, cô gái kia lại xuất hiện trên màn hình, đã thay đồ ngủ. Tiếp đó cô ta đi thẳng đến trước ống kính, màn hình bắt đầu lắc lư, rõ ràng là góc độ của máy quay đang bị điều chỉnh.

Giống như một cảnh quay đặc tả, gương mặt cô gái trực tiếp tiến sát vào màn hình tivi. Tôi thấy cô gái này khá trẻ, tướng mạo lanh lợi xinh xắn, đôi mắt rất to, nhìn tổng thể là loại con gái có phần ngọt ngào đáng yêu.

Chú Ba cũng đang dán sát vào TV, thoáng cái đã mắt đối mắt với cô gái trong màn hình. Điều làm tôi không ngờ chính là, trong nháy mắt, chú Ba trước tiên sững sờ một lát, sau đó toàn thân chú đột nhiên run bắn. Chú thét to một tiếng rồi giật lùi lại mấy chục bước, suýt tý nữa đã đạp cho cái tivi bắn ra khỏi ngăn tủ.

Cậu người làm nhà chú vội chạy lại đỡ tivi, tôi thì đỡ lấy chú. Chỉ thấy chú Ba trỏ vào khuôn mặt trong tivi kia, phát ra tiếng kêu run rẩy: "Là cô ta! Hoắc Linh! Là Hoắc Linh!"

Chúng tôi bị phản ứng bất thình lình của chú Ba dọa sợ gần chết. Cậu người làm nhà chú vội bỏ cái tivi qua đỡ chú, còn tôi trước tiên đặt tivi ngay ngắn lại, chỉ sợ nó rớt xuống hỏng xừ mất.

Tuy nhiên, cậu người làm nhà chú căn bản đỡ không nổi chú Ba. Chú vừa kêu thét vừa cứ thế giật lùi về phía sau, thoắt cái liền đâm sầm vào bộ sô-pha, xô cho cả cái ghế suýt chút nữa lật nhào, còn bản thân chú thì trượt một cái ngã sóng xoài trên đất. Lần này rõ ràng bị đâm đau hết sức, chú ôm lưng, mặt mũi trắng bệch cả ra. Dẫu có thế, ánh mắt chú vẫn chằm chằm dán vào màn hình tivi, con ngươi trợn trừng như sắp rớt ra đến nơi.

Thế này thì tôi cũng hơi kinh ngạc. Cô gái đó vậy mà lại là Hoắc Linh sao?

Theo lời kể của Muộn Du Bình thì Hoắc Linh là con gái một cán bộ, hồi chuyến khảo cổ Tây Sa năm đó cũng là một trong những người cùng xuống ngôi mộ nằm dưới đáy biển. Tư liệu về cô gái này rất ít. Tôi không biết cô ta là ai trong bức ảnh chụp đen trắng kia nên đương nhiên không nhận ra được. Một người như vậy mà lại xuất hiện trong cuộn băng ghi hình Muộn Du Bình gửi tới... quả thật có phần khó mà cắt nghĩa nổi...

Vả lại, điều khiến tôi cảm thấy quái lạ chính là: cuốn băng ghi hình này được làm ra thế nào? Xem xét từ việc cô nàng điều chỉnh ống kính, thì rõ ràng cô ta đã biết là có máy quay phim, mà quay phim tự sướng thì cũng không ai người ta quay như vậy. Thế này hẳn phải là một kiểu giám thị tự sắp đặt. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là băng ghi hình để giám sát. Cô ấy tại sao phải quay băng lại như vậy, mà cuốn băng này làm thế nào lại đến được tay Muộn Du Bình? Còn Muộn Du Bình vì sao lại gửi cuộn băng này cho tôi cơ chứ?

Trong chuyện này phải có trò gì rồi, tôi bắt đầu thầm ngờ vực trong lòng. Chú Ba nói đúng. Xem ra cả câu chuyện này còn xơi mới khép lại được.

Lúc này trên màn hình cô gái nọ đã điều chỉnh máy quay xong. Màn hình không còn rung lên nữa, cô ta cũng rời xa khỏi màn hình như trước, ngồi xuống bên bàn làm việc, dựng một chiếc gương lên chải đầu. Vì hình ảnh là đen trắng, lại thêm vụ lắc lư vừa rồi nên khung hình trở nên có phần mờ ảo.

Chú Ba dần dần bình tĩnh trở lại, nhưng mặt mày đã tái mét, thần sắc bây giờ so với hồi nãy cứ như hai người khác hẳn nhau. Chú nắm cứng lấy tay vịn ghế sô-pha, toàn thân run lên khe khẽ, rõ ràng là đang căng thẳng hết sức.

Tôi vì muốn chắc chắn, nên bèn hỏi lại chú Ba: "Cô gái này chính là cái cô Hoắc Linh đã cùng bọn chú xuống dưới đáy biển ấy hở?"

Chú Ba không có tý tẹo phản ứng nào. Tôi cũng hết cách, liếc mắt nhìn nhau với cậu người làm nhà chú. Cậu ta cũng chịu chẳng biết phải nói thế nào.

Cô Hoắc Linh trong băng hình lại càng không ngừng chải đầu. Mái tóc buộc đuôi ngựa của cô xõa ra tương đối dài, tôi cũng chả hiểu rốt cuộc cô ta còn phải chải đến thế nào. Đại khái phải tới hai mươi phút sau, cô ta mới dừng tay, lại túm tóc lên buộc đuôi ngựa.

Chải đầu xong xuôi rồi, cô liền đứng lên, có hơi mơ màng trông ra ngoài cửa sổ, tiếp đó chạy thình thịch tới chỗ máy quay phim quay không tới, rồi sau đó cô ta lại chạy trở về. Thế nhưng khi cô ta quay lại, tôi phát hiện quần áo của cô ta ấy vậy mà đã khác rồi.

Nói cách khác là cô ta đã vào buồng trong thay cả bộ quần áo.

Tiếp đó, những hình ảnh khiến tôi thấy khó lòng tưởng tượng liền xuất hiện.

Sau khi bước ra rồi, cô ta lại chạy đến trước máy quay, dường như không hài lòng với góc quay nên lại điều chỉnh ống kính. Màn hình bắt đầu rung lên, gương mặt trắng trẻo của cô ta choán lấy toàn bộ màn hình.

Chú Ba phát ra tiếng rên rỉ cực kỳ cổ quái, cứ như thể gương mặt của cô ta đáng sợ vô cùng.

Tôi cứ tưởng cô ta thay quần áo là để ra ngoài, hoặc là nấu cơm nấu nước gì đấy, trong phòng đảm bảo một lúc lâu sau sẽ chẳng thấy bóng người, cho nên tôi cầm lấy điều khiển từ xa nhăm nhe tua tiếp. Đến lúc đó thì lại thấy cô ta ngồi trở về bên bàn làm việc, cầm lược, cởi dây buộc tóc, lại bắt đầu chải!

"Cái cô này bị tâm thần rồi!" Cậu người làm ngồi một bên không kìm được kêu lên.

Chú Ba lập tức giơ tay ra hiệu cho cậu ta đừng lên tiếng, lông mày nhíu rõ chặt.

Cô gái ngồi quay lưng về phía chúng tôi mà chải đầu nên cũng không thấy vẻ mặt của cô. Trong gương chỉ có một cái bóng lờ mờ, động tác cũng gần như đều đặn, tần suất suýt soát hệt như nhau. Tôi nhìn nhìn thử xem, quả thực hoài nghi không biết đầu của cô ta có phải làm bằng sắt không. Phải là tôi thì chải như thế, đầu đã trọc lóc nhăn nheo như quả óc chó từ khuya rồi.

Hình ảnh như thế khiến tôi cảm thấy bầu không khí trở nên có phần quái gở. Tôi chịu đựng tiếp. Lại được thêm tầm 20 phút sau, cô ta mới lại một lần nữa quấn dây buộc tóc, đứng dậy chạy bình bịch ra khỏi màn hình.

Tôi và cậu người làm nọ đều thở phào nhẹ nhõm, nhủ thầm rằng cuối cùng cũng xong rồi. Nếu còn chải tiếp nữa thì đầu của tôi cũng bắt đầu muốn phát nhức lên mất.

Thế nhưng, chẳng thèm đợi chúng tôi giãn gân giãn cốt, cô nàng đã lại thay một bộ quần áo khác chạy ra, tiến đến trước máy quay, lần thứ ba bắt đầu điều chỉnh góc độ.

Tôi bỗng thấy mơ mơ hồ hồ, quả thực chả hiểu mô tê gì cả. Cái cô Hoắc Linh này rốt cuộc đang làm gì? Thế này cũng quá khoa trương rồi, chẳng nhẽ đấy là sở thích của cô ta.... hoặc là, lẽ nào cô ta muốn tự sát? Cho nên mới không nề hà chuyện thay quần áo, chỉnh góc độ. Tiếp theo chẳng lẽ cô ta lại muốn chải đầu tiếp hả? Còn chải tiếp như vậy thì răng lược cũng bị mài thành sợi lông mất.

Đúng lúc đó, hình ảnh đột nhiên đứng khựng lại, hóa ra là chú Ba đã ấn nút tạm dừng. Màn hình hai màu đen trắng lập tức đứng nguyên tại pha quay đặc tả khuôn mặt nọ.

Chú Ba sắc mặt tái mét, môi mép còn có phần run rẩy. Chú sáp lại gần xem xét tỉ mỉ rồi khàn khàn thốt lên: "Trời ạ. Cô ấy cũng không hề già đi!"

Chương 28. Người th mười mt

Điều chú Ba nhắc đến, tôi đã quan sát thấy từ lâu, chỉ là không lên tiếng nói ra. Một mặt vì băng hình không được nét, tôi không rõ mình có nhìn lầm hay chăng, mặt khác là vì tôi tin chú sẽ nhanh chóng để ý thấy thôi.

Quả nhiên, chú Ba dừng hình lại rồi tiến lại gần xem. Tôi cũng sáp vào, muốn nhìn cho kỹ để xác định lại một chút.

Liếc nhìn vài lần, tôi liền có kết luận: không nghi ngờ gì nữa, tuổi tác của Hoắc Linh tại thời điểm ghi hình cuốn băng này không thể quá ba mươi. Ở đây không nói đến bề ngoài trẻ trung, mà là dáng điệu thiếu nữ thanh xuân đó không phải phụ nữ cứ trang điểm cưa sừng làm nghé vào là có thể đóng giả được. Ngoài ra, tôi không thể không nói thêm rằng cô Hoắc Linh này vẻ ngoài thật sự trông xinh xắn lanh lợi lắm, bảo sao lại chẳng bỏ bùa cho mấy anh chàng trong đội khảo cổ mê đắm đến điên đảo thần hồn. Khả năng truyền tải của màn hình đen trắng so với loại có màu tệ hơn rất nhiều, nhưng ánh mắt hơi hơi mơ màng và nét mặt xinh xắn của cô vẫn có thể khiến tim người ta nhảy thình thình. Với một dung mạo như vậy, có lẽ cô luôn cảm thấy vô cùng tự tin vào bản thân, từ bé đến lớn luôn là tâm điểm được mọi người vây xung quanh yêu mến, chiều chuộng. Thế mà lại gặp phải cái ông "thần sầu" Muộn Du Bình hoàn toàn chẳng thèm đếm xỉa gì đến mình, phản ứng của cô như vậy cũng là hợp lý thôi. Có điều bây giờ nghĩ lại, những phản ứng này có thể chỉ là diễn kịch. Nếu quả thật như vậy thì người phụ nữ này cũng là nhân vật lợi hại đây.

Sắc mặt của chú Ba rất khó coi. Co mình vào trong ghế sô pha, chú chặc lưỡi một tiếng: "Một người đã thế, người thứ hai cũng thế, me kiếp, lẽ nào toàn bộ đám người mất tích đó đều thế này sao? Rốt cuộc bọn họ đã gặp phải chuyện gì?"

Tôi ngẫm nghĩ rồi lắc đầu, bảo với chú Ba rằng không thể đoán bừa như vậy được, ở đây chúng ta đâu có biết thời gian ghi hình cụ thể là lúc nào. Nhìn kiểu dáng điện thoại thì có lẽ là trước hoặc sau thập kỷ 90 của thế kỷ 20. Thời điểm đó cũng cách lúc cô ấy mất tích trong huyệt mộ đáy biển chẳng được bao lâu. Chúng tôi không biết lúc bấy giờ Hoắc Linh bao nhiêu tuổi. Nếu hồi đó cô ta chỉ 17-18 tuổi, vậy dẫu có mười năm sau cũng chỉ mới 27-28, vậy thì không thể đưa ra kết luận là cô ấy chẳng hề già đi.

Chú Ba ậm ừ một tiếng, rõ ràng là không quá chú tâm đến lời tôi nói. Chú cho băng ghi hình chiếu tiếp, chúng tôi lại tiếp tục xem.

Tuy nhiên, điều khiến bọn tôi không thể tưởng tượng được là, bật tiếp chưa được bao nhiêu phút, đột nhiên "muỗi" lại tiếp tục nhảy ra đầy màn hình.

Bọn tôi tưởng băng ghi hình có vấn đề, bèn đợi một lát, thế nhưng tiếp theo đó vẫn là "muỗi". Chú Ba bèn tua nhanh, tua mãi cho đến hết, tất cả vẫn rặt những "muỗi".

"Cái gì thế này?" Chú Ba có phần cáu kỉnh. Chú không thạo dùng đồ điện tử, tưởng máy hỏng rồi, bèn định đi ra đập nó.

Tôi ngăn chú lại, kéo cuốn băng ra xem thì phát hiện băng từ không có vẻ gì là bị mốc, liền hiểu ngay ra vấn đề: "Bị xóa mất rồi."

Xét từ tính liên tục của những hình ảnh trong cuốn băng thì đoạn sau hẳn phải có nội dung gì đó. Giờ đột nhiên biến thành chỉ còn nhiễu thì rõ ràng là đã bị xóa mất.

Băng hình từ lúc lấy ra đến giờ hoàn toàn chưa có ai động chạm gì vào, đầu video cũng vừa mới mua, không thể nào là do sai sót khi sử dụng. Hẳn là trước khi được gửi đến đây, cuộn băng đó đã bị xóa một đoạn mất rồi. Nhưng nếu đã cố tình làm thế, vậy thì tại sao không xóa nốt đoạn trước luôn đi, còn phải để lại một đoạn băng hoang đường khó hiểu thế để làm gì? Lẽ nào nội dung đoạn sau có gì đó chúng tôi không được phép xem?

Tôi và chú Ba bốn mắt nhìn nhau, hoàn toàn bó tay không thể hiểu nổi Muộn Du Bình có ý gì. Lẽ nào hắn ghẹo bọn tôi chắc? Không có khả năng đó đâu, vị tiểu ca này đâu có giống kẻ rỗi hơi như vậy chứ.

Chú Ba ngẫm nghĩ một lúc, rồi bảo tôi bỏ lại cuốn băng vào, tua lại từ đầu xem lần nữa. Chú muốn xem kỹ xem phải chăng trong ấy có thứ gì đó mà vừa rồi không phát hiện ra, vì đoạn trước có một khúc bị tua nhanh, không xem kỹ thì chung quy là vẫn có phần không vững dạ.

Lần này chúng tôi thật sự xem lại từng giây từng giây một. Gian phòng lặng ngắt như tờ. Nếu ánh mắt mà có thể mang sức mạnh, thì cái tivi kia có khi bị chúng tôi trợn mắt nhìn đến phát nổ rồi. Tuy nhiên, xem hết một mạch, mắt cũng trợn trừng đến đỏ quạch cả ra mà vẫn không phát hiện được bất cứ manh mối nào có khả năng khiến chúng tôi nảy sinh hứng thú.

Sau đó chúng tôi lại chiếu tiếp cuộn băng ghi hình còn lại. Thế nhưng lần này lại càng quái đản hơn. Cuộn băng đó hoàn toàn trống rỗng, bên trong hoàn toàn chỉ có "muỗi". Bọn tôi tua lại xem "muỗi" liền hai bận, chỉ thấy toàn thân cũng choáng váng cả lên.

Lúc mới bắt đầu xem băng thì hăng lắm, nhưng xem xong lại hết sức chán nản và mụ mẫm. Lúc mới đầu tôi thậm chí còn tưởng là có thể thấy cảnh tượng sau cánh cửa thanh đồng, song thật chẳng thể ngờ bên trong lại là hình ảnh chả hiểu mô tê gì như thế.

Tắt máy đi, tôi cùng chú Ba suy nghĩ xem rốt cục đã xảy ra chuyện gì. Nhưng mà ngồi nghĩ cả nửa ngày, hai chú cháu tôi mới phát hiện ra rằng vấn đề này hoàn toàn chẳng có điểm nào để mà bắt tay vào giải quyết.

Tôi báo cáo với chú Ba về thông tin tôi tìm được hôm qua. Cuộn băng này đến từ Cách Nhĩ Mộc, tỉnh Thanh Hải. Vậy, có thể cho rằng thế này: Muộn Du Bình gửi kiện hàng này cho chúng tôi từ Thanh Hải, vậy thì hiện giờ bản thân hắn nhất định là ở trong thành phố Cách Nhĩ Mộc đó. Nếu vậy, có thể cho rằng hai cuộn băng này là hắn tìm được ở Cách Nhĩ Mộc hay không? Sau đó, hắn mới gửi cho chúng tôi.

Chuyện này cũng hoàn toàn không có cách nào để khẳng định được. Có điều, từ nội dung cuốn băng này, ngược lại có thể xác định một vấn đề: đó là, đám người mất tích trong ngôi mộ dưới đáy biển đó rõ ràng là chưa chết. Vào thập kỷ 90 của thế kỷ 20, bọn họ vẫn còn sống, nhưng hành vi có đôi chút khác thường. Người trong nhóm bọn họ có lẽ đại đa số đã chết trong Vân Đỉnh Thiên Cung. Chuyện này tôi không nói với chú Ba, sợ rằng chú sẽ suy sụp vì trong số đó có thể có cả Văn Cẩm.

Về sau tôi lại ép bản thân mình xem vài lần nữa, nhưng thật sự nhìn không ra nổi vấn đề. Chú Ba còn muốn tiếp tục xem băng, tôi bèn về trước ngủ bù. Tiếp đó chú ba đem cuộn băng sao lại một bản, băng gốc thì trả lại cho tôi, bảo rằng để chú còn nghiên cứu mấy hôm sau. Phan Tử nghe nói chú Ba đã tỉnh, liền đến Cát Lâm đón chú đi.

Lần này việc làm ăn của chú Ba thiệt hại cực lớn. Người làm kẻ thì bị bắt, kẻ thì chạy trốn, địa vị của chú ở Trường Sa cũng rớt cả ngàn bậc. Có điều bản thân chú Ba hoàn toàn chẳng để tâm tới việc này. Đối với chú mà nói thì cái gọi là tiền tài này cũng chỉ là một thứ phù hiệu mà thôi. Lúc sắp đi, chú Ba dặn dò tôi, rằng vấn đề này nếu còn tiếp diễn về sau, thì chú bảo tôi đừng có dây vào thêm nữa. Tôi lúc trước hoàn toàn là sống nhờ cao số, hơn nữa bên mình còn có quý nhân phù trợ, chứ quá tam ba bận, ông trời cũng sẽ không chiều chuộng tôi được mãi đâu. Cẩn thận kinh doanh cửa hàng nhà mình cho tốt mới là thực tế, sau này mớ tài sản còm nhà chú nói không chừng còn phải nhờ tôi trông coi đấy.

Tôi ngoài mặt thì gật gù, bụng nhủ thầm thôi đi, với cái kiểu sống của chú cháu chỉ sợ chẳng có số được hưởng đâu, thôi về làm nghề cũ cho ăn chắc mặc bền còn hơn.

Tóm gọn lại là sau khi chú Ba rời đi rồi, tôi cũng sửa soạn quay về Hàng Châu. Mỗi tội do chả mấy khi có dịp ngày rộng tháng dài ở lại Cát Lâm, thế là tôi bèn ngâm thêm mấy hôm, liên lạc với mấy đứa bạn ở quanh đó, thứ nhất là để xõa một tý, thứ nhì là để chuyện trò ôn lại tý kỷ niệm xưa.

Tôi có vài người bạn cùng đại học đang ở Trường Xuân, thế là bọn họ tranh thủ chạy tới. Mấy đứa bọn tôi tung tẩy khắp nơi, tán dóc những chuyện trước kia, tâm trạng tôi mới dần dần tích cực lên. Sau đó lại dạo quanh thành phố, đi chợ đồ cổ , tôi giúp bọn họ chọn dăm ba món, chạy đi chạy lại cũng đã được hai tuần lễ.

Đã nếm trải nhiều chuyện như vậy, thành ra tôi có chút không để ý mấy chuyện vặt vãnh, hồi trước tiêu tiền còn cò kè mặc cả, chứ bây giờ chỉ đơn giản là tiền trao cháo múc. Có điều cứ thế, tiền nong bên người tôi ngót dần đi.

Mấy đứa bạn cũng lấy làm kỳ lạ với sự thay đổi của tôi. Cái thằng cá gỗ mà cũng chịu chơi thì thật quá bất ngờ. Họ đều hỏi xem cái gì đã thúc đẩy tôi như thế.

Trong một lần ăn cơm, tôi bèn chọn chơi trò đặc sắc, kể những chuyện tôi đã trải qua với mấy người kia, coi như là chém gió một bận. Thế mà nói xong lại chả có ai tin. Một đứa trong đám thì cười hỏi: "Cậu kể chuyện mấy người xuống đáy biển đó, có phải là bức ảnh nhờ tớ điều tra không?"

Tôi nghe cậu ta nói, bấy giờ mới nhớ ra rằng hồi trước tôi tìm được một tấm hình trên mạng, bên dưới có chữ "Cá ở chỗ tôi". Lúc đó chính là tôi tóm cổ cậu ta nhờ điều tra giúp. Sau cậu ta chỉ tra ra là nó được gửi lên mạng từ Cát Lâm, còn lại thì cậu ta mặc kệ.

Giờ nghĩ lại thì cũng thật kỳ quái. Cái thứ mạng Internet này mới chính thức bắt đầu phát triển được mấy năm nay. Rốt cuộc là ai đã gửi lên nhỉ?

Đã nhớ ra rồi, tôi bèn hỏi luôn cậu kia xem về sau có còn tra thêm được cái gì nữa không. Cu cậu lắc đầu, rõ ràng cũng chả thèm ghim câu chuyện của tôi trong lòng, chỉ nói thế này: "Ảnh chụp kiểu đó bình thường lắm, hơn nữa thời kỳ cũng quá xưa. Tư liệu thời đó bình thường chả ai đưa lên mạng, tớ chỉ có thể xài mấy mánh chuyên môn. Cái địa chỉ IP đó là thứ duy nhất có thể tra ra đấy. Tớ thấy nếu cậu thật sự muốn điều tra, thì chả có gì bằng đến Cục Lưu trữ Quốc gia, tìm xem có đội khảo cổ mười một người nào mất tích hai mươi năm trước không. Chắc là biết được nhiều hơn đấy."

Tôi ậm ừ một tiếng. Vậy cũng có lý lắm chứ. Có người ngồi bên bèn đính chính: "Đằng ấy nhớ sai rồi. Cái ảnh đó tớ cũng xem rồi. Là mười người chứ."

Cậu kia lắc đầu bảo: "Đâu mà, tớ thấy là mười một người."

Ruột gan tôi lộn nhào. Tôi hỏi cậu ấy: "Sao lại thế?"

Cậu ta cười: "Trong ảnh thì là mười người, nhưng không phải còn một người chụp ảnh sao? Chả nhẽ các cậu không nghĩ tới à?"

Chương 29. Vĩ thanh

Người vừa lên tiếng là một anh bạn của tôi, tên Lý Trầm Chu(*), học lớp trên tôi. Tên của cậu ta rất ngộ. Hồi đó tôi cứ tưởng cha mẹ cậu ta có lẽ là fan của Hạng Vũ, đập nồi dìm thuyền. Sau này quen thân rồi, lân la hỏi, tôi mới biết cha mẹ cậu ta là ngư dân, cũng thấy họ rất nghèo, liền tự nhủ rằng xem ra cha mẹ không muốn cậu ta thừa kế cái nghề truyền đời này đây mà.
(*)Trm Chu ly t trong câu phá ph trm chu, tc đp ni dìm thuyn, da theo tích: Hng Vũ đem quân đi đánh C Lc, sau khi qua sông thì dìm hết thuyn, đp v hết ni niêu đ binh sĩ thy không có đường lui, phi quyết tâm đánh thng. 

Tôi với cậu ta cũng chẳng thân nhau lắm, chỉ là người trong nhóm này thường hay chơi với nhau, nói chuyện cũng khá hợp, là bạn bè kiểu quân tử chi giao(**), có việc gì cần thì hỗ trợ lẫn nhau, chứ không phải cái kiểu chả có việc gì cũng cứ phải túm tụm vào một chỗ. Hồi ấy tôi tìm cậu ta nhờ giúp là vì cậu ta hình như làm trong ngành kỹ thuật. Dĩ nhiên là cái nghề buôn đồ cổ này của tôi cũng chả liên quan một tý gì đến cậu ta. Hiện giờ nghề nghiệp cụ thể của cậu ta là gì, tôi còn chẳng biết rõ.
(**)Người xưa có câu "quân t chi giao đm nhược thy", ý ch cái tình gia nhng người quân t tuy ngày thường đi đãi nhau ch đm mc, song khi gian khó thì luôn hết lòng vì nhau~

Bữa nay nghe cậu ta nói một lời như chợt tỉnh cơn mê. Nghe thấy cái thuyết "mười một người" kia, tức thì toàn thân tôi đầm đìa mồ hôi lạnh, đến cả sắc mặt cũng trắng nhợt ra.

Đúng thật! Mẹ kiếp sao tôi lại không nghĩ tới cơ chứ?

Vào thời ấy thì làm gì có máy ảnh ngắm tự động, trong ngôi làng chài ở Hải Nam cũng tuyệt đối không có tiệm chụp ảnh. Người có thể sử dụng máy ảnh đích xác phải là thành viên đội khảo cổ. Tôi chỉ cần động não một tý là nhận ra anh ta nói có lý cực kỳ. Tôi đã từng xem rất nhiều tư liệu khảo cổ ở Tây Sa, bên trong đều có ảnh chụp lại. Thông thường với những trường hợp như này, đều có người của bên thông tin tuyên truyền đi theo làm biên bản.

Thế mà vì sao trong lời kể của chú Ba trước sau gì cũng chỉ nhắc đến mười người, chứ chưa từng đề cập đến người thứ mười một đó? Liệu có phải người bên thông tin tuyên truyền này không ra biển cùng bọn chú, hay là chú Ba vẫn còn giấu giếm điều chi?

Trông thấy bộ dạng của tôi, mấy đứa kia bèn rú lên cười hô hố. Lý Trầm Chu liền bảo: "Đừng nghĩ nữa. Xem ra tớ thấy, chú Ba cậu lần này ấy à, đảm bảo lại vẫn đang lừa cậu đấy. Cậu lại bị chơi khăm mẹ nó rồi."

Tôi cũng thoáng thấy chột dạ, bèn nhủ thầm rằng đệch mệ, *éo phải chứ, một cảm giác bực bội pha lẫn sợ hãi lại dâng lên trong lòng. Lập tức tôi liền tự mình lừa mình, chống chế nói: "Không có khả năng đâu. Chuyện chú ấy kể lần này trước sau gì cũng đều ăn khớp lắm. Không thể nào là lừa tớ được. Tớ có phải thằng đần đâu."

Lý Trầm Chu không phát hiện thấy tâm tình tôi biến đổi, bèn vỗ vỗ lưng tôi, tiếp tục tương cho một đòn: "Loại cáo già như chú Ba nhà cậu đương nhiên không thể bịa đại ra một câu chuyện để lòe cậu rồi. Nhất định đó phần lớn là sự thật, đến đoạn mấu chốt mới bịp cậu một cái. Ban nãy nghe cậu kể, tớ liền phát hiện ra một vấn đề: kẻ thứ ba mà chú Ba cậu nhắc đến ấy, thực ra là có cũng được mà không có cũng chả sao. Với lại, cậu chỉ cần nghĩ kỹ một tý là thấy ngay, làm gì có cái người thứ ba kia chứ. Cái lời kể của anh Bình Xì Dầu gì gì mà cậu nói ấy lại không hề mâu thuẫn với những chuyện mà chú Ba cậu kể. Tớ thấy khả năng cậu bị chú Ba lừa có lẽ là lớn hơn một chút đấy." (vâng, Bình Xì du kín ming nhà ta đy ="))))))) )

Tôi trong lòng có hơi hụt hẫng, tự nhủ rằng cậu suy diễn hay là tớ suy diễn đây hả, bảo cậu ta nói kỹ lại xem đầu cua tai nheo thế nào, sao cứ lái đi đâu rồi.

Cậu ta nốc thêm một đống rượu, rồi dùng tay áo quẹt miệng, đáp: "Nói trắng ra đây này, cậu nghe cho kỹ nhá. Có mấy điểm đáng ngờ này. Thứ nhất, chú Ba cậu trên thuyền bức cung Giải Liên Hoàn, Giải Liên Hoàn liền huỵch toẹt ra là Cầu, ờ......."

"Là Cầu Đức Khảo. Mẹ nhà cậu, đừng có sỉ nhục người bạn quốc tế của giai cấp vô sản chứ." Có người ngồi cạnh sửa lưng.

"À, mặc kệ Cầu Cầu cái khỉ gió gì," Lý Trầm Chu đáp: "Lão Cầu kia bảo hắn xuống ngôi mộ dưới đáy biển, là để chụp hình bích họa chứ gì? Cậu nghĩ xem, người như Giải Liên Hoàn có thể khai thật với chú Ba cậu hay không?" Cậu ta nhìn xoáy vào tôi. " Làm gì có chuyện đó. Cái loại người này bọn tớ cũng từng tiếp xúc rồi, miệng lưỡi lươn lẹo cứ gọi là bậc nhất. Nghĩ theo hướng đó, mà cậu bảo Giải Liên Hoàn lặn xuống chỉ là vì bích họa thôi á? Tớ thấy chưa chắc đâu. Lật ngược lại vấn đề, chú Ba cậu có thể tin tưởng hắn sao? Cái loại cáo già như chú Ba nhà cậu sao lại tin tưởng hắn được? Ở đây chúng ta rút ra được một kết luận rất có khả năng: Giải Liên Hoàn xuống mộ dưới đáy biển là vì mục đích khác, mà chú Ba nhà cậu cũng biết rằng hắn nói hơi điêu."

Tôi nghe mà trán cứ mướt mồ hôi hột, bụng bảo dạ rằng cũng hơi bị có lý.

Đến lúc này Lý Trầm Chu bèn nằm ngửa ra, nói: "Nếu cậu cũng thấy tớ nói có lý, thì để tớ cho cậu xem một kịch bản khác nhá."

Mấy người còn lại đều bắt đầu thấy hứng thú hẳn lên. Lúc này rượu vào cũng đã kha khá, thuốc cũng đều đã châm, mọi người bèn bảo cậu ta nói tiếp, nếu thấy sơ hở chỗ nào liền bị phạt rượu.

Lý Trầm Chu có phần đắc ý nói: "Chơi luôn. Vậy trước tiên chúng ta đặt mình ở vị trí khác để nghĩ thử chút nhé, đều ngẫm thử xem nếu mình là lão chú Ba phổi bò này, thì lúc đó sẽ nghĩ như thế nào nào? Các cậu xem, nếu chú Ba đó đã biết rằng Giải Liên Hoàn sẽ không khai thật, nhưng mà ở trên thuyền ổng cũng không thể tra tấn ép cung đúng không? Thế thì lão cáo già này sẽ nghĩ gì nào? Nhất định là trước hết cứ theo Giải Liên Hoàn xuống mộ dưới đáy biển. Tiếp đó, ở trong mộ thất, lão cáo già sẽ bắt đầu chất vấn Giải Liên Hoàn về mục đích thực sự của hắn. Chưa nói đến chuyện dùng cả Mãn Thanh thập đại cực hình, nói không chừng lão còn xả bình dưỡng khí của Giải Liên Hoàn, lại bắt y nhìn lượng dưỡng khí càng lúc càng ít đi, không thể không khai mục đích thực sự của việc xuống ngôi mộ dưới đáy biển. Mục đích này chính là chuyện mà cái lão nước ngoài Hình Cầu gì gì kia không chịu nói với chú Ba nhà cậu. Sau khi biết được bí mật này rồi, chú Ba cậu mới nảy lòng tư lợi. Cậu có nhớ cái hang trộm ly kỳ trong ngôi mộ dưới đáy biển mà cậu kể ấy không? Đảm bảo nó là do hai người bọn họ đào ra khi hành động vì mục đích thật sự kia đó. Sau đấy không biết là do bất trắc, hay do chú Ba nhà cậu bản tính độc địa, hoặc có lẽ nói đúng ra là vì vấn đề dưỡng khí, rốt cuộc Giải Liên Hoàn chết, còn chú Ba nhà cậu thì thoát được ra. Mà chú Ba lúc đó đã lấy được tất cả tư liệu của ngôi mộ dưới đáy biển rồi.

Mà điều càng rõ ràng hơn là chú Ba cậu cũng chưa đạt được mục đích nọ, vì thế ông ta bèn sắp xếp lần xuống mộ thứ hai, cũng lợi dụng chuyện mình đã thông thạo về ngôi mộ cổ này mà làm những người kia choáng váng hôn mê để dễ bề hành động. Tuy nhiên, tớ đoán là khi chú Ba cậu xong việc quay trở lại, liền phát hiện ra những người bị hôn mê đều không thấy đâu nữa, biến mất hết rồi. Cho nên ông ta mới áy náy lưu tâm đến như vậy. Ông ta không biết những người đó đã tự mình thoát ra, hay là gặp phải chuyện gì, còn sống hay đã chết. Mà bởi vì đã biết mục đích thật sự của lão già ngoại quốc Hình Cầu, ông ta mới tiếp tục tham gia vào vụ này. Ông ta cũng vì thế mới có thể hy sinh chuyện làm ăn của mình để lên núi Trường Bạch, chứ không thì chuyện không có lợi, ông ta nhúng tay vào làm gì?"

Tôi nghe đến đây thì chân tay đã xụi lơ hoàn toàn. Cha nội này cũng quá lợi hại đi. Thế quái nào mà kể ra còn vanh vách hơn cả lời chú Ba. Nhưng nếu đúng là như thế thì chú Ba tôi chẳng phải là trùm phản diện đó sao?

"Có điều tớ cũng chỉ suy đoán bậy bạ không căn cứ mà thôi." Cậu ta nói tiếp: "Thật ra cậu chẳng cần phải tốn công tốn sức với những lời kể của chú Ba cậu làm gì, bởi vì cho dù có là những lời của chú Ba cậu hay lời của cái Bình Xì Dầu kia kể, thì đều không bằng không chứng, chỉ toàn là lời nói gió bay thôi, nghe theo bọn họ thì có mà lẫn lộn tùng phèo hết. Tớ thì tớ thấy, cậu đem tinh thần sức lực đầu tư vào loại chuyện này là chả có một tý ý nghĩa nào cả. Muốn biết sự thật á, quan trọng nhất chính là phải giải thích được một chuyện khác cơ."

"Chuyện gì cơ?" Tôi đã hoàn toàn bị cậu ấy cuốn theo.

"Chú Ba của cậu vì sao lại phải nói dối cậu? Cậu nghĩ mà xem, chuyện này chả có một tý gì là liên quan đến cậu, nói ra sự thật hay không thì có khác qué gì nhau, sao phải tốn cả đống công sức biên soạn ra lời nói dối phức tạp đến thế để đối phó với cậu làm gì?" Cậu ta liếc mắt nhìn tôi đầy ẩn ý, "Nguyên nhân căn bản ở chỗ này, sơ hở lớn nhất cũng nằm tại chỗ này luôn."

"Thế cậu nghĩ nguyên nhân là cái quái gì?" Tôi chất vấn cậu ta.

"Có nhiều cách giải thích lắm, trong đó cái đơn giản nhất là chú Ba cậu nói dối rằng chuyện này chẳng có liên quan gì với cậu. Nhưng trong câu chuyện này, chỉ sợ vai trò của cậu lại quan trọng cực kỳ."

Lý Trầm Chu chốt lại một câu: "Mà thôi, đừng nghĩ nữa. Suy cho cùng thì, cứ qua đơn vị cũ của mấy người đó mà tra cứu chẳng phải là sẽ biết sao. Thường thì Viện nghiên cứu Khảo cổ vẫn chịu sự quản lý của ngành văn hóa, hồi đó bọn họ được Viện nghiên cứu nào phái đi, hồ sơ có lẽ vẫn còn lưu. Ở nước mình có rất nhiều hồ sơ được lưu vĩnh viễn mà."

Tôi cũng không nói lời nào, dù sao đây cũng chỉ là phỏng đoán. Nếu như có thời gian thì quả thật cũng có thể điều tra được. Có điều nếu tra ra đúng là có mười một người, thì tôi biết phải đối mặt với lời biện bạch của chú Ba thế nào đây? Có phải là sẽ bác bỏ toàn bộ mọi điều chú nói không? Nỗi đau xót này có phần quá lớn. Nghĩ tới đây, tôi thấy thà thôi đừng điều tra nữa cho rồi.

Chương 30. Rng đến nhà tôm

Về đến Hàng Châu rồi, thời tiết vẫn vô cùng lạnh giá.

Cửa hàng vẫn vắng tanh không khác gì ngày trước. Vương Minh thấy tôi trở về, một vẻ mệt đừ, thế nào mà mấy tích tắc đầu lại chẳng nhận ra tôi, còn tưởng tôi là khách hàng. Tôi cũng chỉ có thể cười khổ.

Kết quả cuộc thảo luận giữa tôi và mấy đứa bạn đã giáng cho tôi một đòn cực nặng, khiến tâm trạng tôi cứ rối bời không yên, lại không thể đi hỏi chú Ba lần nữa, kẻo ông cụ khốt đó lại chửi tôi chân trong chân ngoài. Sầu não trong lòng không chỗ trút, tôi đành ngày ngày nán lại trong cửa hàng, chơi cờ với ông chủ quầy đối diện. Lại nói năm nay nhiêu khê nhiễu sự, cả phố buôn bán chả khá khẩm tý nào, mọi người đều phải đổ thóc giống ra ăn, sống một cách vô công rồi nghề.

Nói tới thì kể cũng lạ. Những chuyện buồn phiền sau khi về Hàng Châu rồi tôi cũng ít nghĩ tới. Đại khái thành phố này bản thân nó vốn rất dễ khiến người ta thấy nhẹ lòng.

Có một khoảng thời gian dài tôi không gặp chú Ba. Bàn Tử có tìm tôi vài lần, nhờ tôi giải quyết mấy việc. Thằng cha này đúng là chả ở yên được, gia tài bạc triệu mà phung phí rõ nhanh, chả mấy chốc đã thấy bảo hết tiền. Hỏi ra thì mới biết là anh ta mở cửa hàng ở Bắc Kinh, liền tiêu mất gần sạch nhẵn rồi. Thời buổi này đúng là không giống trước kia nữa, ôm được một vạn là cả đời khỏi cần lo lắng. Có điều mấy người khách mở miệng toàn nói giọng Bắc Kinh mà anh ta mấy lần dẫn theo cũng đều đặn lấy không ít hàng, chắc hẳn mở rộng kinh doanh rồi thì buôn bán lãi lời cũng khá.

Bữa nay, tôi đang bị ông chủ cửa hàng kế bên chém giết đến mức chỉ còn lại một đôi mã, còn ngoan cố không chịu nhận thua, chuẩn bị cầm cự đến giờ cơm chiều là lại tìm cớ hoãn binh, thì chợt nghe có một kẻ vừa đi vừa luôn mồm mắng chửi suốt đến gần. Tôi ngẩng đầu nhìn lên thì hóa ra lại là Bàn Tử. Cha nội này làm ăn cũng khấm khá quá nhỉ.

Chủ cửa hàng bên cạnh đã từng làm ăn với Bàn Tử, không ít lần bắt bí anh ta, vừa thấy Bàn Tử đến liền chuồn mất. Tôi mừng húm vì khỏi phải thua tiền, liền hỏi xem anh ta cáu gắt cái gì.

Bàn Tử hùng hổ mắng mắng chửi chửi, hóa ra là mang hai cái bình sứ đến Hàng Châu, giữa đường bị vỡ mất một cái trên xe lửa, lại chả bắt đền được ai, chỉ có thể cáu gắt.

Tôi với anh ta quen biết đã lâu, chút chuyện tường tận về anh ta tôi cũng biết ít nhiều, bèn chế nhạo, cười anh ta không chịu ngồi máy bay mà cứ chen chúc trên xe lửa. Thế chả phải là bị chập mạch à?

Bàn Tử chửi: "Cậu thì biết cái *éo gì. Bây giờ máy bay họ làm gắt lắm đó. Tôi ở Phan Gia Viên cũng có tên có tuổi, được cớm người ta đặc biệt chăm sóc lắm đấy. Mấy năm nay họp hành quốc tế ở Bắc Kinh nhiều quá, giờ cứ vài ngày lại một trận càn quét. Bố mày có mỗi cái cửa hàng mà ngày nào cũng bị hành cho khốn khổ, hết mẹ cửa làm ăn. Chứ không á? Bất đắc dĩ lắm mới phải Nam tiến nhá. Giang Nam coi trọng buôn bán, đầu tư tiền vào mới hợp. Có điều con gái Hàng Châu các người hung dữ quá. Bàn gia nhà cậu trên xe lửa mãi mới lựa được chuyện phiếm để giải sầu, thế mà bị ăn một cú vêu mồm. Còn hàng họ của bố thì bị đập cho vỡ mẹ nó hết. Mẹ sư cha đứa nào bảo con gái Giang Nam là làm từ nước đấy? Bịp bố à, có mà là làm từ axit sulphuric thì có."

Chuyện này Bàn Tử lải nhải rất nhiều lần rồi nên tôi biết nó thế nào. Trên xe lửa có một cô bé rõ là gầy. Bàn Tử thấy cô gái gầy như cái xác ve mà mặt còn bự phấn, mồm miệng lại văng ra mấy câu không được thanh lịch cho lắm, phàn nàn trong xe có mùi gì khó ngửi. Dĩ nhiên đây là tại chân Bàn Tử thối quá. Bàn Tử nghe xong lửa giận tích tụ, cũng bởi vì quá rỗi việc, mồm mép liền châm chọc cô ta, nói rằng cô em à, tôi thấy cô dung nhan xinh đẹp thật, mà cớ sao lại gầy gò như thế. Xem hai cái ống quần cô kìa, gió thổi qua là đũng quần bay phấp phới như đèn lồng, lắp vào bên trong hai cái cánh quạt, thì mẹ nó đánh rắm còn phát được luồng điện sức gió ấy chứ.

Câu này chưa nói dứt lời đã bị người ta văng cho một cái tát vỡ mồm. Tôi nghe xong cười hớn hở, bảo anh ta rằng người ta tha cho, không lôi anh đến đồn công an đã là tốt lắm rồi đấy. Anh biết không, trên đời này có một loại tội gọi là tội quấy rối, mà anh thì đã là kẻ tình nghi rồi đấy.

Bàn Tử còn loe mồm lên, nói với khuôn mặt đó á, ui da, bảo tôi quấy rối cô ta hả, cớm tuyệt đối sẽ không tin đâu. Tôi nhất định phải là người bị hại mới đúng.

Tôi bèn bày cho anh ta một cách, nói sau này anh không cần đích thân đưa đến nữa. Anh không biết trên đời này có thứ gọi là chuyển phát nhanh à? Anh đó, chỉ cần tự bỏ ít tiền ra, mở công ty chuyển phát nhanh, đút lót nhiều nhiều chút. Cái dịch vụ này vừa chạy, thì cứ từng trạm từng trạm, ở trên mỗi xe lại tống tiễn thêm vài món minh khí còn không phải dễ như ăn cháo là gì.

Bàn Tử riêng về phương diện kinh doanh là đồ chết não, nghe không hiểu những thứ phức tạp, cũng không tám được với tôi về khoản này. Anh ta thổn thức nói: "Nói tới tiền nong, Bàn gia nhà cậu chả bần tiện gì đâu, nhưng mấy tháng nay tôi thực sự đợi đến phát ngấy lên rồi. Cậu nói coi, tiền lời cứ thế mà tiêu, như vậy rất là vô nghĩa. Đám người chúng ta còn phải làm cái việc kia, đúng không? Đó mới gọi là chân lý cuộc đời. Phải rồi, Tam gia nhà cậu đó, gần đây còn gắp Lạt Ma không? Sao chả có tin tức gì vậy?"

Tôi liền bảo bản thân tôi cũng chẳng liên lạc gì. Cứ cảm giác như thể sau chuyện này, tôi với chú Ba đã có một khoảng cách. Chú không dám gặp tôi, mà tôi cũng không dám đi gặp chú. Thỉnh thoảng thấy mặt một lần cũng chẳng nói năng gì.

Bàn Tử cũng không để ý, chỉ bảo: "Phải mà còn có việc gì hay ho, thì nhớ san cho tôi với nhá. Mấy tháng nay xương cốt ngứa ngáy hết cả rồi."

Tôi nhủ thầm rằng anh nói đi nói lại, chẳng phải cũng vì tiền cả sao. Trong lòng thấy tức cười, tôi bèn nói: "Bàn Tử nhà anh, tính tình đúng là quái thật, nếu là nhiều tiền thì anh cũng có chứ không phải không, sao mà đến mức không đủ xài chứ?" Anh ta đáp: "Núi cao còn có núi cao hơn, hào kiệt ở Phan Gia Viên đông như ốc, nguyên một đám đại gia trá hình, có hàng xịn là toàn chặn cục gạch ém trong nhà đó. So với đám người ấy thì có mà ghen tức chết luôn. Thường nghe nói, người sống trên đời chỉ cần còn một hơi thở thì làm gì có chuyện tiền nhiều lại không muốn nhiều tiền hơn nữa chứ!"

Tôi cười vang ha hả, bảo đây mới đúng là lời nói thật.

Đang nói dở thì ngoài cửa hàng đột nhiên có người thò đầu vào, ngẩng mặt liền cười, hỏi: "Ông chủ, có mở cửa làm ăn không đấy......"

Bàn Tử đang gãi gãi cẳng chân, bèn ngước mắt lên nhìn người mới đến, kêu ối chà một tiếng rồi cười lạnh nói: "Là cô hả?"

Tôi ngoái lại nhìn, người đến hóa ra là A Ninh, bữa nay diện một cái áo thun hở rốn, xỏ quần bò, cảm giác khác xa với lúc ở trên biển. Tôi cũng có phần nhận không ra.

A Ninh với tôi chả có mấy khi liên lạc với nhau, tôi cũng đã từng nghe ngóng tin tức về người này, nhưng lại chẳng có thông tin gì. Hôm nay cô nàng đột nhiên đến tìm tôi, lại khiến tôi thấy bất ngờ hết sức.

A Ninh không thèm đếm xỉa gì đến Bàn Tử, trừng mắt liếc anh ta một cái, sau đó ưỡn ẹo lượn một vòng đầy quyến rũ quanh cửa hàng nhà tôi, rồi quay sang tôi nói: "Khá phết nhỉ, bày biện trông cổ kính lắm."

Tôi nghĩ bụng, tôi đây là kinh doanh đồ cổ đấy, thế chẳng nhẽ lai trang trí nội thất kiểu siêu thực à? Tôi cảnh giác hỏi: "Gớm chả mấy khi rồng đến nhà tôm. Cô tìm tôi có việc gì đấy?"

Cô nàng có phần thất vọng nhìn tôi một cái, đại khái là nhận ra thái độ của tôi, bèn ngập ngừng rồi đáp: "Anh đúng là thẳng thắn. Thế thì tôi cũng không khách sáo nữa. Tôi tới tìm anh để anh mời tôi ăn cơm, thế anh có mời không thì bảo?"

Chương 31. Manh mi mi

Trong nhà hàng Lâu Ngoại Lâu ở Hàng Châu, tôi ngồi nhìn A Ninh xơi nốt miếng cá chua cuối cùng, thỏa mãn lau lau cái miệng nhỏ nhắn, bày ra một vẻ mặt ngây ngất mà bảo chúng tôi: "Đồ ăn ở Hàng Châu đúng là khá thật, mỗi tội hơi ngọt."

Cơn bực mình trong lòng tôi đã lên đến đỉnh điểm, nhưng lại không tiện bùng ra, chỉ đành nhếch nhếch mép xem như có cười, rồi vẫy tay gọi tính tiền.

Nói thật, là chỗ quen biết với nhau, có mời cô ta ăn một bữa cơm thì cũng chả phải chuyện gì to tát lắm, tôi cũng không phải loại người chưa từng dùng bữa với kẻ xa lạ bao giờ. Nhưng có một bữa cơm mà ăn uống cứ như cà phê nhỏ giọt trong phin ấy, mất đến những hai tiếng đồng hồ lận, cả buổi lại chẳng nói chẳng rằng lấy một câu, chỉ vừa ăn vừa nhìn chúng tôi rồi cười, thì quả thực là tôi hết chịu nổi.

Còn có Bàn Tử cũng bực mình không kém. Bàn Tử rất có thành kiến với cô ta, vốn đã định phủi đít bỏ đi rồi, nhưng mà tôi thật sự không muốn một mình xơi cơm với cô ả này, nên tôi cố sống cố chết kéo anh ta cùng vào nhà hàng. Giờ thì anh ta hối hận đến tím ruột bầm gan.

Hai đứa bọn tôi ăn chẳng được mấy miếng. Bàn Tử thì một mực ngồi đó uống rượu giải sầu. Mặt mũi cả hai đều sa sầm lại, cứng ngắc. Tôi âm thầm suy đoán xem cô ả này rốt cuộc tới tìm tôi làm gì, vừa nghĩ cách ứng phó, thậm chí cả cách làm sao để phòng tránh nếu lỡ ả ta đột ngột nhảy lên phi ám khí tôi cũng nghĩ luôn rồi.

Nhân viên phục vụ đến viết hóa đơn tổng, trông thấy ánh mắt bọn tôi thì cũng thành ra bực bội cảnh giác.

Cái loại thực khách ngồi cả hai tiếng đồng hồ không buồn trò chuyện, mặt mũi xám ngoét, ở Lâu Ngoại Lâu quả là ít gặp. Trông ánh mắt của cô phục vụ thì có lẽ cô ta đã cho rằng chúng tôi là đám cho vay nặng lãi rồi, còn cô gái vóc người xinh đẹp kia sau khi ăn xong sẽ bị tôi và Bàn Tử bán luôn vào nhà thổ.

Còn bản thân tôi thì lại cảm thấy mình như đứa học trò đến kì thi không thèm ôn tập, bỗng nhiên phát hiện thầy giáo đến thăm hỏi hai vị phụ huynh nhà mình, chẳng biết là phúc hay họa đây, chính là cái cảm giác nhấp nhổm không yên chờ thầy giáo nói vào câu chuyện đó đó. Tóm lại, cả đời tôi có bữa cơm này là ăn một cách bực bội nhất.

Nhân viên phục vụ đi xa rồi, Bàn Tử nhìn đồ ăn trên bàn cười khẩy một tiếng, hỏi: "Không ngờ cô cũng là kiểu người ăn thùng uống vại đấy nhỉ. Thế nào? Cô bán mạng làm việc cho công ty nhà cô như vậy, mà đến bữa cơm no công ty của các cô cũng không cho được cơ à?"

"Bọn tôi quanh năm suốt tháng ở ngoài bãi hoang, có cầm vàng thỏi theo thì cũng làm gì có gì tử tế mà ăn." A Ninh nhướn mày, "Cứ đem so với lương khô thì thứ gì ăn mà chả ngon."

Bàn Tử cười nhạt, liếc liếc tôi, đưa mắt ra hiệu một cái ý bảo tôi nói tiếp câu chuyện mà anh ta mới khơi lên.

Tôi 'khụ' một tiếng, cũng chả biết nói thế nào. Có điều A Ninh rõ ràng là đến tìm tôi, nếu để Bàn Tử giúp tôi hỏi chuyện thì nhất định là không phải phép. Vì thế tôi đành miễn cưỡng đương đầu với thử thách, hỏi A Ninh: "Cơm thì tôi cũng mời cô ăn rồi, có chuyện gì chúng ta cứ nói thẳng ra đi. Cô lần này tới tìm tôi, rốt cuộc là có chuyện gì?"

A Ninh bèn nhếch khóe môi mỉm cười: "Sao mà cứ hỏi mãi chuyện này thế? Chả nhẽ không có việc thì không đến tìm anh được à? "

Một cái nhếch miệng này chứa biết bao nhiêu quyến rũ lẳng lơ. Tôi thấy con mắt cô ta nhìn tôi đến mức sắp chảy nước ra rồi, trong ngực bỗng nghẹn ứ một cục, những muốn ói máu. Trong vô thức tôi quay sang nhìn Bàn Tử. Bàn Tử lại làm bộ như không nghe thấy, quay ngoắt mặt sang bên khác.

Tôi chỉ đành xoay đầu trở lại, chẳng biết phải hỏi tiếp như nào, bèn "ờ" một tiếng, nửa ngày nói chẳng nên câu, mặt mũi thoắt cái nghẹn đến đỏ lựng cả lên.

A Ninh thấy cái bộ dạng này của tôi, lúc đầu còn muốn khiêu khích xem tôi ứng phó thế nào, kết quả đợi cả nửa buổi vẫn chả thấy tôi nói năng gì, cô nàng đột nhiên cười phá lên, lắc đầu tức cười bảo: "Thật là hết cách bắt chẹt anh, chả biết có phải cái bộ dạng này là anh giả vờ ra không nữa. Thôi bỏ đi, không ghẹo anh nữa. Tôi đúng là tìm anh có việc đây."

Nói đoạn cô ta moi trong túi ra một cái bọc vuông vức rồi đưa cho tôi: "Đây là thứ công ty chúng tôi vừa nhận được. Có liên quan đến anh đấy. Anh xem thử đi."

Tôi xem thử thì thấy đó là một gói bưu phẩm. Áng chừng một chút, trong lòng tôi chợt cồn cào cả lên, đại khái đã biết nó là thứ quái gì rồi. Kích thước như thế, hình dạng như kia, lại thêm kinh nghiệm từ mấy ngày trước, thật sự là nào có khó đoán. Thế là tôi không tự chủ được mà đổ mồ hôi lạnh dầm dề.

Bàn Tử không biết rõ nội tình, thấy tôi ngây người ra đó liền giằng lấy cái gói, mở ra xem thì quả nhiên là hai cuộn băng ghi hình màu đen, hơn nữa cũng giống như hai cuộn băng chúng tôi nhận được ở Cát Lâm, đều là băng hình theo chuẩn cũ.

Tuy tôi đã đoán ra được rồi, nhưng khi đã được xác nhận hẳn hoi thì trong lòng vẫn hẫng một cái, tự hỏi chuyện này là thế nào vậy? Lẽ nào Muộn Du Bình không chỉ gửi hai cuộn băng? Cùng với đồ gửi cho tôi, còn có một phần khác gửi đến công ty A Ninh nữa? Hai cuộn băng này, phải chăng cũng có nội dung giống với hai cuộn băng mà chúng tôi đã nhận được?

Thằng cha này rốt cuộc muốn làm gì?

"Đây là thứ mấy ngày hôm trước được gửi đến trụ sở của công ty chúng tôi ở Thượng Hải. Vì người gửi tương đối đặc biệt, nên rất nhanh nó đã đến tay tôi." A Ninh nhìn tôi. "Sau khi xem xong tôi liền biết phải tới tìm anh một chuyến."

Bàn Tử đã nghe tôi kể về chuyện băng ghi hình, bây giờ cái vẻ mặt làm gì còn giữ được bí mật nữa, nhắm thẳng vào tôi nhấm nháy ra hiệu. Tôi lại 'khụ' một tiếng, ý bảo anh ta đừng có kích động như vậy, rồi nói với A Ninh: "Người gửi bưu kiện có cái gì đặc biệt thế? Nội dung trong băng là cái gì?"

A Ninh liếc xéo Bàn Tử một cái, như cười như không, quay sang tôi đáp: "Người gửi bưu kiện đúng là hết sức đặc biệt. Đợt chuyển phát nhanh này người gửi chính là....." Cô ta lấy trong túi ra một tờ hóa đơn chuyển phát nhanh, "Anh tự xem xem đó là ai."

Tôi thấy cô ả cứ nói kiểu che che đậy đậy như thế, trong lòng thầm nghĩ người gửi bưu kiện chắc là Trương Khởi Linh rồi. Gì chứ cái tay này thì lại chả đặc biệt hết cỡ. Tôi bây giờ còn có cảm giác chẳng hiểu anh ta rốt cuộc có tồn tại trên cõi đời này hay không nữa. Thế nhưng làm sao mà A Ninh lại biết hắn ta đặc biệt được cơ chứ?

Thế là tôi bèn nhận lấy. Bàn Tử lại thò đầu sang xem. Mới thoáng nhìn thấy là tôi đã sững cả người. Thứ ghi trên tờ hóa đơn kia, tên của người gửi đợt chuyển phát nhanh này, lại chính là Ngô Tà - tên họ của tôi.

"Cậu á?" Bàn Tử bên cạnh chẳng hiểu ra sao cả, bèn kêu lên.

Tôi lập tức lắc đầu, nói với A Ninh: "Tôi không có gửi! Cái này không phải tôi gửi đâu."

A Ninh gật đầu: "Chúng tôi cũng biết. Làm sao có khả năng anh gửi đồ cho chúng tôi được. Ngưởi gửi đồ ghi lên cái tên này, rõ ràng là để đảm bảo rằng đồ sẽ đến được tay tôi mà thôi."

Hứng thú của Bàn Tử bị khơi lên. Anh ta bèn hỏi A Ninh: "Ở trong quay gì ấy nhể?"

A Ninh đáp: "Thứ bên trong khá là quái đản. Tôi nghĩ các anh nên xem một chút, tự mình cảm nhận đi."

Sự ngờ vực trong lòng tôi đã bị dồn lên đến cao trào. Lúc này tôi quên cả phòng bị, buột miệng hỏi A Ninh: "Có phải có một cô gái cứ liên tục chải đầu không?"

A Ninh rõ ràng là không hiểu gì cả, liếc nhìn tôi một cái rồi lắc đầu trả lời: " Không phải. Thứ trong này, không biết có thể tính là người hay không nữa."

-----

Nhà hàng Lâu Ngoại Lâu ở Hàng Châu cực kỳ nổi tiếng, có lịch sử đến 160 năm :">


Chương 32. Ngôi nhà cũ trong cun băng hình

Mấy đầu máy video mua tại Cát Lâm tôi đã gửi bưu điện về để ở trong nhà. Vì không muốn A Ninh biết địa chỉ thật của mình () - tuy có khả năng cô ta đã sớm biết rồi - nên tôi phân công Vương Minh về nhà tôi lấy. Ở ngay gian trong của cửa hàng, sau khi cắm đầu máy xong, chúng tôi liền bật cuốn băng từ mới nhận trên chiếc TV nhỏ ở đây.

Băng từ vẫn là loại trắng đen không hề thay đổi. Đoạn nhiễu qua đi thì xuất hiện một gian phòng ở bày biện theo kiểu cũ. Lúc mới bắt đầu, tôi còn hơi giật mình, nhưng ngay sau đó liền phát hiện ra cách bài trí của căn phòng kia đã không còn giống như trong cuốn băng chúng tôi đã xem ở Cát Lâm, rõ ràng là địa điểm đã thay đổi. Không gian rộng lớn hơn nhiều, nội thất cũng khác hẳn, không biết là ở đâu.

Lúc ấy, khi ở Cát Lâm cùng với chú Ba xem xong hai cuộn băng từ kia, đoạn sau tất cả đều là muỗi, xem đi xem lại cũng không phát hiện được bất cứ đầu dây mối nhợ nào. Hiện giờ có cuốn băng từ mới, tôi thầm nghĩ bên trong chắc sẽ có manh mối, nên xem kỹ lưỡng hơn một chút.

Vương Minh pha trà rót nước cho mọi người. Bàn Tử không hề khách sáo, nằm xoài ra trên ghế dựa của tôi. Tôi đành ngồi sang một bên, sau đó đuổi Vương Minh ra ngoài trông hàng, lại còn phải giữ kẽ ráng sức duy trì một khoảng cách với A Ninh. Có điều lúc này A Ninh cũng nghiêm túc rồi, gương mặt lạnh tanh so với vẻ dí dỏm ban nãy cứ như hai người hoàn toàn khác hẳn.

Trong căn phòng đó rất tối, ở một bên có ánh sáng loang lổ chiếu vào. Theo hình dạng ánh sáng chiếu xuyên qua thì cửa sổ có phần giống loại song gỗ khắc hoa sử dụng cho kiểu nhà cũ thời Minh-Thanh, tuy nhiên hình ảnh là đen trắng nên nhìn không rõ lắm. Có thể thấy lúc này trong phòng không có người.

Bàn Tử nháy mắt với tôi, ngầm hỏi nội dung có giống cuộn băng ghi hình mà Muộn Du Bình gửi cho tôi không. Tôi thoáng lắc đầu ý bảo không phải. Anh ta để lộ vẻ mặt vô cùng bất ngờ rồi lại quay đầu chăm chú xem băng.

Có điều, một đoạn khoảng mười lăm phút sau hình ảnh vẫn không có gì thay đổi, chỉ là thỉnh thoảng nhiễu một phát làm chúng tôi giật mình thon thót.

Tôi từng có kinh nghiệm nên vẫn còn có thể chịu được. Bàn Tử thì đã không kiên nhẫn được nữa, bèn quay sang phía A Ninh: "Tôi bảo này Ninh tiểu thư, cô cầm nhầm băng rồi hả?"

A Ninh mặc kệ anh ta, chỉ nhìn tôi. Tôi thì lại nín thở, vì tôi biết cuộn băng này có lẽ cũng là băng hình giám sát, có ghi lại hình ảnh phòng ở không một bóng người cũng là cực kỳ bình thường. A Ninh đã muốn đưa cuộn băng từ này tới, thì chắc chắn không lâu sau nữa sẽ có một sự việc gì đó không tầm thường xảy ra trong cuốn băng.

Thấy tôi và A Ninh không nói câu nào, Bàn Tử cũng mất mặt, uống xong ngụm trà liền muốn ra ngoài. Tôi bèn ấn anh ta xuống, không để anh ta chuồn đi mất. Lúc bấy giờ anh ta mới chịu ngồi lại, nhưng cứ cào cào gãi gãi sồn sột hết chỗ nọ chỗ kia, rõ ràng là cực kỳ sốt ruột.

Tôi trong lòng ngấm ngầm bực dọc nhưng cũng không tiện bùng nổ, đành phải tập trung tư tưởng hạ hỏa, tiếp tục theo dõi căn phòng trên TV. Bản thân tôi cũng có phần mất kiên nhẫn, thật muốn nhấn nút tua nhanh nó lên một chút.

Vừa đúng lúc đó, A Ninh đột nhiên ngồi ngay ngắn hẳn lên, ngoắc tay ra hiệu. Tôi cùng Bàn Tử lập tức cũng ngồi thẳng người, cẩn thận theo dõi màn hình.

Trên màn hình, trong phòng bỗng xuất hiện một cái bóng xám đang di chuyển từ trong bóng tối ra, động tác vô cùng kỳ quái, tốc độ đi cũng cực chậm, cứ như là say rượu.

Tôi nuốt ngụm nước miếng, trong lòng nảy ra vài suy đoán nhưng không biết có chính xác hay không. Lúc này tôi cũng căng thẳng hẳn lên.

Rất nhanh, cái bóng trắng trông rõ ràng hẳn. Đến khi nó di chuyển đến bên cửa sổ thì lúc bấy giờ tôi mới hiểu ra vì sao động tác của người này lại kỳ dị đến thế: đó là vì nó căn bản không phải đang đi, mà là đang bò trên mặt đất.

Người này không biết là nam hay nữ, chỉ thấy nó đầu bù tóc rối, quần áo mặc trên người trông cứ như áo liệm, bò trườn trên mặt đất một cách chậm chạp, đầy gian nan.

Mà điều làm tôi cảm thấy kỳ dị chính là tư thế bò trườn của nó trông cực kỳ quái đản. Nếu không phải là người có tật, thì hẳn là đã phải chịu một sự ngược đãi đến cực độ. Tôi từng xem một bản tin, trong đó nói ở một vùng nông thôn hẻo lánh có gã dân quê đem nhốt bà vợ thần kinh có vấn đề trong hầm ngầm, đợi đến khi bà vợ được thả ra thì đã không thể nào đi lại bình thường được nữa mà chỉ có thể bò thôi. Động tác của nó đúng là cho tôi loại cảm giác này.

Chúng tôi đều không lên tiếng, nhìn nó bò qua màn hình rồi lẳng lặng không một tiếng động mà biến mất ở đầu đằng kia. Sau đó, trước mắt chúng tôi, căn phòng lại trở về vẻ yên tĩnh bất động như cũ.

Toàn bộ quá trình chỉ dài hơn bảy phút tý tẹo, nhưng điều khiến người ta gần như phát điên chính là: không có âm thanh. Phải nhìn một người bò qua không chút tiếng động như vậy là một chuyện cực kỳ không thoải mái.

A Ninh ấn điều khiển từ xa, tua lại cuốn băng, sau đó tiếp tục phát một lần nữa. Sau đó, cô ta dừng hình ảnh lại rồi bảo chúng tôi: "Đoạn sau không cần xem nữa. Vấn đề là ở đây."

"Tóm lại là có ý gì thế hả?" Bàn Tử không hiểu đầu cua tai nheo gì, lên tiếng hỏi tôi, "Đồng chí Thiên Chân Vô Tà, người kia là ai vậy?"

"Tôi làm sao biết được!" Tôi buồn bực đáp. Vốn tôi cho rằng sẽ nhìn thấy Hoắc Linh xuất hiện lần nữa, ai dè lại không phải. Điều này càng khiến tôi thêm nghi ngờ. Nhìn cái dáng gù gù kia, nếu đúng thật là đồ do cùng một người gửi đi thì trên cuốn băng ghi hình có lẽ vẫn là Hoắc Linh. Lẽ nào lúc Hoắc Linh được ghi lại trong cuốn băng hình này thì đã già đến nỗi đứng cũng không nổi hay sao?

Bàn Tử lại quay sang hỏi A Ninh rốt cuộc đã có chuyện gì xảy ra. Đây là quay thứ gì vậy?

"Các anh cảm thấy mình đã thấy gì?" A Ninh hỏi lại chúng tôi.

"Cái đó còn phải hỏi sao? Đây không phải là một người bò qua trên sàn nhà trong một cái phòng hở?" Bàn Tử trả lời.

A Ninh không để ý tới anh ta mà nhìn tôi đầy thâm ý rồi hỏi: "Anh nói đi?" Dường như cô ta muốn nhìn ra cái gì đó từ trên người tôi vậy.

Tôi theo dõi vẻ mặt của A Ninh, khó hiểu hỏi: "Chẳng lẽ không phải à?"

Cô ta có phần ngờ vực, lại có vẻ hơi bất ngờ, nheo mắt: "Anh... vẫn không có cảm giác đặc biệt gì khác sao?"

Tôi chẳng hiểu gì cả, liền đưa mắt nhìn Bàn Tử. Bàn Tử thì nhìn chằm chằm vào cuốn băng ghi hình đang phát ra thanh âm "rè rè", lắc đầu: "Không thấy."

A Ninh chằm chặp nhìn tôi rất lâu rồi mới thở dài nói: "Thôi được rồi, chúng ta xem tiếp cuốn thứ hai. Tôi hy vọng các anh có thể chuẩn bị tâm lý thật tốt."

Nói xong thì cuốn băng từ thứ hai cũng được bỏ vào đầu máy. Lần này A Ninh không để chúng tôi xem từ đầu, mà bắt đầu tua nhanh cuộn băng. Đến tận thời điểm băng ghi được mười lăm phút, cô ta mới nhìn tôi nói: "Anh... tốt nhất là hít thở sâu một lát đi!"

Tôi bị cô ta nói thế thật đúng là có phần luống cuống. Bàn Tử thì sốt ruột nói: "Xem thường người ta hả? Cô cũng không dò la một chút, xem đồng chí Tiểu Ngô nhà ta đã trải qua những cảnh ngộ nào. Trèo lên núi tuyết, lặn xuống biển sâu, tôi còn không tin có thứ gì hù dọa được cậu ta, cô đừng có ở đấy mà vẽ vời ra thói đa sầu đa cảm của đám đàn bà con gái các cô nữa. Tiểu Ngô, cậu nói thử xem sao, cái lý lẽ này có đúng hay không vậy hả?"

Tôi mặc kệ lời anh ta nói, bảo A Ninh cứ bắt đầu đi. Ngồi ở phòng trong của cửa hàng nhà mình rồi, tôi cũng chẳng tin tôi sẽ phát hoảng đến mức chạy đi đâu được nữa.

A Ninh trừng mắt nhìn Bàn Tử. Băng ghi hình lại bắt đầu phát, hình ảnh vẫn là căn phòng ở kia, có điều màn hình máy quay có vẻ hơi rung rinh, hình như có người đang điều chỉnh nó. Rung được khoảng hai phút màn hình mới ngay ngắn lại. Tiếp theo, một khuôn mặt từ dưới màn hình ló lên.

Lúc mới đầu tiêu cự chưa được điều chỉnh tốt, áp sát quá gần nên nhìn không rõ lắm, nhưng tôi đã nhận ra người nọ không phải Hoắc Linh. Tiếp đó, khuôn mặt người nọ lại dịch chuyển ra sau, một người mặc áo liệm màu xám giống y lúc trước xuất hiện trên màn ảnh. Người đó run rẩy ngồi dưới đất, tóc tai rối bù nhưng với một vài cử động tôi vẫn nhìn thấy được mặt của nó.

Cùng lúc đó, Bàn Tử kinh ngạc kêu thét lên một tiếng, quay phắt đầu lại nhìn tôi, mà tôi cũng lập tức cảm giác được cơn ớn lạnh xộc thẳng từ sống lưng lên sau gáy mình, đồng thời há hốc cả miệng, tưởng như sắp ngộp thở đến nơi.

Trên màn hình, kẻ quay đầu bốn phía ngó nghiêng như người điên kia có gương mặt vô cùng quen thuộc. Tôi phải mất vài giây mới thừa nhận được: đó lại chính là bản thân mình!

Chương 33. Hoàn toàn ri lon

Ba người chúng tôi câm nín đủ mười phút đồng hồ, tất thảy đều im phăng phắc. Trong lúc đó Bàn Tử vẫn cứ nhìn tôi chằm chằm, nhưng không ai nói một câu nào.

A Ninh cho tạm dừng hình ảnh trên tivi lại. Trên khuôn hình đen trắng, hình ảnh đang dừng lại kia chính là khuôn mặt cực kỳ quen thuộc. Dưới mái đầu bù tóc rối đó là gương mặt mà mỗi ngày tôi đều nhìn thấy: khuôn mặt của chính mình. Mới nhìn một lần tôi đã có cảm giác kinh hoàng và quỷ dị đến thế, cho nên tôi không dám nhìn lại nữa.

Một lúc lâu sau, A Ninh mới lên tiếng. Cô ta khẽ nói: "Đây chính là nguyên nhân vì sao tôi nhất định phải tìm bằng được anh."

Tôi không nói câu nào, cũng không biết phải nói thế nào. Đầu óc tôi trống rỗng rồi, căn bản không biết nên phản ứng ra sao nữa.

Bàn Tử há hốc miệng, phát ra vài tiếng ú ớ vô nghĩa rồi mới nhả ra được một câu: "Tiểu Ngô, người đó là cậu hả?"

Tôi lắc đầu, cảm thấy từng cơn choáng váng ập tới, đầu óc hoàn toàn không sao suy nghĩ nổi nữa. Tôi nhéo mũi mình thật mạnh, xua xua tay với họ ý bảo bọn họ đừng hỏi tôi nữa, để cho tôi tỉnh táo lại một chút trước đã.

Bọn họ quả thực không nói lời nào nữa. Tôi hít mạnh mấy hơi thật sâu, gắng sức bình tĩnh trở lại rồi mới hỏi A Ninh: "Là từ đâu gửi đến thế?"

"Theo chữ ghi bên trên thì hẳn là từ Cách Nhĩ Mộc ở Thanh Hải gửi tới."

Tôi hít sâu một hơi, quả nhiên là từ cùng một nơi gửi đến. Xét về thời điểm quay cuốn băng này thì thấy cũng cùng một thời kỳ với hai cuốn băng quay Hoắc Linh kia, không quá gần với thời hiện đại bây giờ. Hai cuốn băng này cùng với hai cuốn băng mà tôi nhận được có lẽ có một mối quan hệ nào đó. Có thể loại bỏ khả năng đây là hai sự kiện độc lập rồi.

Nhưng trong đầu tôi nhớ mình chắc chắn chưa bao giờ trải qua chuyện mặc loại quần áo như vậy và bò trườn trong một ngôi nhà cổ. Điều này thật sự không thể tưởng tượng nổi, bản thân tôi rất khó mà tin được rằng người trên màn hình lại là chính mình. Nhất thời, tôi liền có cảm giác đây là một âm mưu.

"Ngoại trừ cái này, còn có manh mối nào khác hay không?" Tôi lại hỏi cô ta. Cô ta lắc đầu: "Đầu mối duy nhất chính là anh, cho nên tôi mới tới tìm anh."

Tôi cầm lên chiếc điều khiển từ xa, tua về rồi xem lại toàn bộ một lần nữa. Chiếc điều khiển bị tôi bóp đến mức kêu lên ken két. Nhìn thấy khoảnh khắc đặc tả trong chớp mắt đó, tôi dù đã có chuẩn bị tâm lý nhưng trong lòng vẫn bất chợt trầm xuống một chút.

Màn hình trắng đen tuy không rõ nhưng người bên trong tuyệt đối chính xác là tôi chứ không sai.

Bàn Tử vẫn còn muốn hỏi nữa nhưng bị A Ninh ngăn lại. Cô ta ra ngoài nói với Vương Minh một câu gì đó, cậu ta bèn đáp một tiếng rồi không lâu sau đó đã liền cầm một chai rượu quay trở lại. A Ninh hắt nước trà của tôi đi, rót cho tôi một chén rượu.

Tôi cười khổ một cái vẻ cảm kích, đón lấy rồi há miệng tợp một ngụm lớn. Vị cay đắng xộc vào khí quản khiến tôi lập tức ho sù sụ. Bàn Tử bên cạnh nhẹ giọng nói với tôi: "Cậu bình tĩnh một chút trước đã, đừng gấp. Chuyện này cũng không khó giải thích đâu. Trước tiên là cậu phải xác định đã, người kia thật sự không phải là cậu chứ hả?"

Tôi lắc đầu: "Người đó đảm bảo không phải là tôi."

"Vậy cậu có anh em gì không, bề ngoài trông rất giống cậu ấy?" Bàn Tử nhếch miệng hỏi tôi, "Không phải ông già cậu ở bên ngoài có này nọ gì đấy chứ-"

Tự tôi cũng cảm thấy nực cười. Đây chẳng phải là mấy tình tiết trong tiểu thuyết võ hiệp sao? Làm sao xảy ra trong thực tế được. Tôi cười khổ lắc đầu, lại hớp thêm một ngụm rượu lớn.

A Ninh quan sát tôi, nhìn một lúc thật lâu rồi mới nói: "Nếu không phải là anh, vậy anh có thể giải thích được đây là chuyện gì không?"

Tôi thầm nghĩ, cô hỏi tôi tôi biết hỏi ai, trong lòng đã rối bời đến nỗi không muốn đối đáp gì với cô ta nữa. Sự việc đã hoàn toàn ra ngoài khỏi phạm vi tôi có thể hiểu được, tạm thời tôi không thể dùng lý trí mà suy nghĩ được nữa. Điều chủ yếu nhất là, hễ mỗi khi tôi lần không ra được manh mối nào nữa thì đồng thời trong lòng lại cứ nảy lên một cảm giác kỳ quái, thế nhưng tôi lại không thể tóm được bất cứ đầu dây mối nhợ nào của cái cảm giác này. Điều này khiến cho tôi đặc biệt điên tiết.

Bàn Tử ngồi một bên lại nói: "Nếu vậy cũng không phải, thì chỉ có thể là người này đeo mặt nạ giả trang thành cậu... Xem ra, chả mấy khi lại có người đặc biệt yêu thích tướng mạo của cậu, cậu hẳn là phải thấy phê lắm. Thử nghĩ xem có phải người ta quay cuốn băng này tới phá cậu chơi không?"

Tôi thầm chửi một tiếng. Mặt nạ da người, nghe thì có vẻ là một cách giải thích tốt, nhưng cái thứ gọi là mặt nạ da người này, dùng để che giấu mặt thật biến thành người lạ thì rất dễ, chứ muốn hóa trang thành một người cụ thể hẳn hoi thì tương đối khó, có thể nói là gần như không có khả năng thực hiện được. Nếu có người muốn phỏng theo mặt mũi tôi làm một chiếc mặt nạ da người, thì phải cực kỳ quen thuộc cấu trúc khuôn mặt tôi mới được, hơn nữa còn phải hiểu rõ các loại vẻ mặt của tôi, nếu không, cho dù có làm được ra mặt nạ, chỉ cần người đeo cười hoặc mở miệng thì lập tức sẽ lộ tẩy ngay.

Hình ảnh trong cuốn băng ghi hình này nhất định là phải ấn chứa điều gì đó. Cho dù thật sự có người đeo mặt nạ phỏng theo tướng mạo tôi thì cũng sẽ xuất hiện một đống vấn đề lớn: tỷ như kẻ đó rốt cuộc là ai? Làm thế nào mà biết được tướng mạo của tôi? Đã dùng cái "mặt" của tôi vào việc gì? Tại sao lại xuất hiện trong băng ghi hình? Địa điểm trong băng ghi hình là chỗ nào? Rồi vào lúc nào thì ghi hình lại? Và có liên quan gì với cuốn băng ghi hình của Hoắc Linh?

Sự tình không hề đơn giản như vậy đâu.

Tôi thậm chí còn sinh ra ảo giác, tự hỏi hay là không phải người kia đeo mặt nạ da người, mà chính tôi mới là kẻ đeo mặt nạ da người đây?

Tôi sờ lên mặt mình, thế nào lại cứ muốn nhìn xem mình có phải Ngô Tà hay không. Thế nhưng miết lên có cảm giác đau, rõ ràng khuôn mặt tôi là thật, bản thân tôi cũng bật cười.

Cuốn băng quay Hoắc Linh, cùng với cuốn băng ghi hình "tôi" được gửi đến tay tôi và A Ninh dưới một cái tên Trương Khởi Linh và một cái tên Ngô Tà. Hành động đó dù sao cũng phải có ý nghĩa gì đó. Tất cả những chuyện không thể tưởng tượng nổi bỗng chốc đổ ụp cả xuống, cái cảm giác mà mãi tôi mới có thể thoát khỏi được - chính là chấp niệm đối với sự thật nằm sau lời nói dối của chú Ba - lại đột nhiên trào dâng trong lòng tôi.

Tối đến, vẫn ở Lâu Ngoại Lâu, tôi mời Bàn Tử ăn cơm, vẫn là ở cái bàn hồi trưa.

Cả buổi chiều tôi cứ một mực trầm mặc. A Ninh về sau đợi không nổi nữa, bèn để lại một chiếc điện thoại và địa chỉ rồi quay về khách sạn của mình. Cô ta nói tôi nếu có nghĩ ra cái gì thì hãy báo cho cô ta biết. Ngày mai cô ta lại tới nữa.

Tôi đoán rằng trong một buổi tối mình cũng sẽ chẳng nghĩ ra điều gì, nên cũng chỉ đáp qua loa vài tiếng rồi tống khứ cô ta đi. Bàn Tử vốn định về luôn tối hôm đó, thế nhưng lại xảy ra cái chuyện này, anh ta cũng có hứng thú nên chuẩn bị đợi tiếp vài ngày, để xem sự việc sẽ tiến triển ra sao. Chỗ anh ta ở là do tôi sắp xếp cho, mà buổi trưa lại chẳng ăn uống gì, bèn tiếp tục ở lại ăn chực cơm của tôi.

Cô phục vụ nọ thấy tôi và Bàn Tử lại tới nữa, nhưng cô gái kia lại không thấy đâu, có lẽ đã cho rằng cô gái ấy bị chúng tôi bán đi thật rồi, nên sắc mặt cứ có vẻ kỳ kỳ. Nếu là lúc bình thường thì chắc tôi đã giở trò trêu cô ta rồi, nhưng hiện giờ tôi thật sự chẳng còn lòng dạ nào nữa.

Cái lúc A Ninh vừa đi, Bàn Tử liền hỏi ngay tôi: "Tiểu Ngô, đám đàn bà con gái phắn rồi, rốt cuộc đã có chuyện gì, cậu nói đi được rồi đó?"

Tôi cũng vẫn nở nụ cười khổ với anh ta, nói tôi thật sự không biết, cũng chẳng phải tại có mặt A Ninh nên mới giả bộ lờ ngờ.

Bàn Tử làm ra vẻ không tin. Xem ra trong mắt anh ta, chú Ba tôi là trùm lừa đảo, còn tôi chí ít cũng phải là một con cáo con. Người ở trong cuốn băng ghi hình chắc chắn chính là tôi, còn tôi thì chắc chắn là có nỗi khổ tâm gì đó không nói ra được.

Tôi thật sự không muốn giải thích nữa, tiện mồm thề độc một câu, anh ta mới miễn cưỡng nửa tin nửa ngờ. Lúc này rượu và đồ nhắm đã dọn lên, Bàn Tử cũng tợp một chập rượu rồi lại hỏi tôi: "Tôi bảo Tiểu Ngô này, tôi thấy chuyện này không đơn giản đâu. Cậu không nói năng gì cả buổi chiều rồi, tóm lại là có nghĩ ra cái gì không vậy? Cậu không được gạt Bàn gia đâu nhé."

Tôi lắc đầu, cau mày bảo với anh ta: "Thật sự chẳng nghĩ ra được gì. Chuyện này tôi làm sao có thể nghĩ cho rõ ràng được cơ chứ, thậm chí phải bắt đầu nghĩ từ chỗ nào, tôi mẹ kiếp còn *éo biết. Hiện giờ chuyện duy nhất có thể nghĩ là cuộn băng này rốt cuộc do ai gửi tới thôi."

Lúc chiều tôi đã suy nghĩ rất lâu. Những điều khiến tôi lưu tâm, thứ nhất là, theo như nội dung nhìn thấy trên băng hình, "tôi" và Hoắc Linh đều giống nhau, đều biết biết đến sự tồn tại của chiếc máy quay, rõ ràng là "tôi" cũng không kháng cự lại cái vật kia.

Thứ hai là, cuốn băng của Hoắc Linh, thời gian ghi hình rõ ràng từ rất lâu rồi, có lẽ đã quay từ những năm 90 của thế kỷ 20. Nếu như hai cuốn băng đều được ghi từ cùng một thời kỳ, thì "tôi" trong cuốn băng kia của A Ninh có lẽ cũng sống ở thập niên 90, mà lúc đó thì tôi còn nhớ rành rành rằng mình vẫn đang học phổ thông. Không chỉ nói riêng rằng tôi không hề có ký ức về việc quay cuốn băng này, mà cho dù có thì hình dáng tôi cũng không giống như vậy. Tôi tuy là kẻ theo thuyết âm mưu, nhưng nếu như thời thơ ấu của tôi có gì giả dối, thì những bức ảnh chụp từ nhỏ tới lớn của tôi ở trong nhà phải giải thích thế nào? Mấy người học cùng tôi, bạn bè của tôi, thì lại phải giải thích thế nào?

Hiện giờ, xem ra chuyện tôi nghĩ không thông nhất chính là chuyện người gửi cuốn băng này cho A Ninh là ai, và mục đích của người đó là gì. Lẽ nào chỉ là muốn dọa rồ tôi một trận? Thật sự rất không có khả năng.

Bàn Tử vỗ vỗ tôi xem như an ủi, lại tự nói với chính mình: "Kẻ mạo danh cậu gửi đồ cho A Ninh ấy, có thể nào cũng là Tiểu Ca kia không?"

Tôi thở dài, lòng tự nhủ chuyện này ai mà biết được. Nhớ tới cách giải thích của A Ninh đối với cái tên ghi trên bưu phẩm, tôi lại nảy ra nghi vấn trong lòng. Nếu kiện hàng của A Ninh chỉ là dùng tên giả để gửi đi, thì có phải hai cuốn băng từ trên tay tôi cũng là dùng tên giả? Dùng tên của Trương Khởi Linh cũng là để cuộn băng đó có thể đến được tay tôi? Người gửi băng không phải là hắn ta, mà là một người hoàn toàn khác?

Dù sao tôi cũng cảm thấy thật sự hắn ta chẳng có lý do gì để mà gửi đi một thứ thế này cả. Băng ghi hình và hắn cũng chả hợp với nhau tý nào.

Tôi bèn hỏi Bàn Tử: "Phải rồi, đầu óc của Bàn Tử anh không giống như người khác. Anh nghĩ thử giúp tôi một tý, xem chuyện này có thể là thế nào đi. Phải dùng trực giác của anh ấy."

"Trực giác á?" Bàn Tử gãi đầu gãi tai, "Mẹ kiếp cậu không phải là muốn làm khó tôi đấy chứ? Bàn gia gần đây đến cả ảo giác còn không có, còn trực giác cái mẹ gì."

Tôi tự nhủ ờ cũng đúng, muốn Bàn Tử suy nghĩ chuyện này thì quả thật có phần thất sách. Dù sao anh ta và Muộn Du Bình đâu có quá quen thân, sự việc ở Tây Sa anh ta cũng không biết, ít ra là chẳng nắm được nhiều như tôi.

Nói đến Muộn Du Bình, thì liệu tôi có được tính là hiểu thấu người này không nhỉ? Tôi vừa nhấp một ngụm rượu vừa suy nghĩ.

Cảm giác tổng thể mà Muộn Du Bình tạo cho tôi là người này không hề giống một con người, mà tựa như một ký hiệu cực đơn giản. Trong trí óc tôi, ngoại trừ mấy lần hắn ta cứu tôi kia, hình như những lúc khác tôi nhìn đến thì đều thấy hắn đang ngủ. Thậm chí tôi còn không có lấy mảy may đầu mối nào để suy luận về tính cách của hắn ta.

Nếu là người bình thường thì luôn luôn có thể phán đoán được tính nết của họ thông qua giọng điệu nói chuyện hoặc là vài cử chỉ vô thức, nhưng mà hắn ta thì lúc nào cũng nói ít đến mức đáng thương, lại chẳng hề có cử chỉ vô thức nào cả, đích xác là một kẻ chẳng hề làm bất cứ việc gì thừa thãi. Chỉ cần hắn ta có động tác là y như rằng có chuyện gì đó xảy ra. Đây cũng là lý do vì sao rất nhiều lần hễ cứ thấy hắn ta biến sắc là tất cả mọi người đều bắt đầu toát hết cả mồ hôi hột.

Tôi ngẫm nghĩ rồi lại nói với Bàn Tử: "Vậy khỏi cần trực giác, anh nói thử xem, đối với vấn đề này anh có cảm giác gì, có chỗ nào bất ổn không? Một tẹo thôi cũng được, góp sức giúp tôi một tí."

Bàn Tử liền thở dài bảo tôi: "Mẹ nó chứ, cậu đúng là làm mất mặt giai cấp vô sản chúng ta. Cảm giác thì tôi không có, cơ mà chỗ bất ổn thì thực ra là có một cái đấy. Lúc cậu vừa nói ban nãy tôi đã để ý thấy có một chi tiết nhỏ, không biết cậu có từng chú ý hay không?"

"Chi tiết gì vậy?" Tôi hỏi anh ta.

"Chẳng phải cậu đã nói rằng băng hình Tiểu Ca gửi cho cậu kia, có những hai cuốn còn gì? Trong đó một cuốn là cô gái kia chải đầu, cuốn còn lại là băng trắng, chẳng có cái gì cả."

Tôi gật đầu, đúng là như thế thật.

Bàn Tử lại nói: "Cái này mẹ kiếp thật bất thường. Nếu là băng trắng thì hắn gửi cho cậu làm quái gì? Cái này chẳng phải vô lý à? Thế quái nào hắn lại không gửi luôn mỗi cái cuộn thứ nhất là xong ấy, cần phải gom hai cuộn lại làm gì?"

Tôi thở dài. Lúc trước tôi cũng từng suy xét vấn đề này, nhưng mà cả câu chuyện cực kỳ khó tưởng tượng nổi, cho nên những phương diện không hợp lý nhỏ nhặt này tôi chẳng có sức mà cẩn thận nghiền ngẫm. Lúc đó cảm thấy đối phương hẳn phải có dụng ý khác, chỉ có điều tôi cũng không hiểu dụng ý của họ mà thôi.

Bàn Tử nghe xong chỉ lắc đầu, bảo rằng không đúng: "Vấn đề này nếu như theo suy nghĩ của cậu như vậy thì cũng quá là bế tắc. Chúng ta đang sống trong thế giới thực tế, đây không phải là truyện thần tiên, chẳng có nhẽ gì mà lại xảy ra chuyện không đầu không đuôi như vậy được. Tôi thấy chúng ta có lẽ đã hơi phức tạp hóa vấn đề quá mức rồi. Có lẽ đối phương gửi cái băng hình này đi, lại với lý do cực kỳ đơn giản."

Tôi trong đầu có chút suy nghĩ phản đối, nhưng lại không muốn nghĩ nưa, liền cứ để anh ta nói ra nhận xét của mình.

Bàn Tử bảo: "Cũng chẳng phải là nhận xét, tôi chỉ thấy cách suy luận vấn đề của cậu không đúng, hình như là bị người ta xoay cho rối lên rồi. Chúng ta thử nghĩ thẳng vào vấn đề một chút, đối phương gửi hai cuốn băng từ cho cậu, một cuốn có nội dung, một cuốn không có gì. Nói cách khác là có một cuốn hoàn toàn không gửi cũng được, mà đối phương thế nào lại vẫn cứ gửi đi, có đúng không?"

Tôi gật đầu. Bàn Tử nói tiếp: "Thế là chết mẹ rồi đấy. Xét tổng thể thì như vậy là rất bình thường, nhưng vì cái tên người gửi băng từ nên lại làm cho cậu cảm thấy không thể hiểu nổi. Chúng ta chủ quan cho rằng cha đó làm bất cứ chuyện gì có lẽ cũng đều có thâm ý cả. Nhưng mà mẹ nó, nếu không nghĩ như vậy, giả sử cái đứa gửi đồ kia chỉ là người bình thường, cậu cho rằng người bình thường trong tình huống này liệu có thể làm như vậy hay không? Tôi thì nghĩ là kiểu gì cũng không thể. Nếu là tôi gửi băng từ cho cậu, tôi làm quái gì mà phải kèm thêm một cuộn băng trắng rồi mới gửi đi? Thế này chẳng phải quá bệnh sao? Tôi thấy ở đây đảm bảo là có ẩn ý. Cậu nghĩ kỹ xem có phải là hợp lý không."

Tôi khẽ gật đầu. Bàn Tử vĩnh viễn làm cho người ta vui mừng kinh ngạc. Đúng là vấn đề này tôi đã không đào sâu suy nghĩ như vậy. Tôi dựa vào ghế suy ngẫm lời của Bàn Tử, rơi vào trầm tư.

Một người bình thường, ở trong tình huống như thế nào thì sẽ dùng cách này để gửi đồ? Một cuốn băng ghi hình có nội dung rồi lại kèm thêm một cuốn băng ghi hình không có nội dung, gói chung lại như vậy là có dụng ý gì?

Không nên phức tạp hóa vấn đề! Tôi tự dặn chính mình, dùng trực giác suy nghĩ, ngẫm lại xem trước kia lúc mượn băng ghi hình, trong tình huống như thế nào thì bản thân mình sẽ làm như vậy?

Vừa nghĩ thì quả đúng là chợt nhớ đến một việc trước kia. Tôi thầm giật nảy mình, cảm thấy hình như đúng là có một hồi nào đó mình cũng đã từng làm chuyện tương tự.

Bàn Tử đang xơi thịt Đông Pha (tht ba ch kho nh kiu Tô Đông Pha -东坡肉) ở một bên, thấy bộ dạng tôi như vậy bèn hỏi: "Thế nào? Nghĩ ra cái gì rồi hả?"

Tôi ngoẹo đầu bảo anh ta đừng ồn ào, trong lòng nghiền ngẫm chuyện ban nãy mình vừa nghĩ ra. Nghĩ đi nghĩ lại, hồi ức trước kia cũng xuất hiện. Tôi lầm bầm một tiếng, đột nhiên trong chốc lát đã ý thức được chuyện là thế nào. Tôi vùng đứng lên, bảo với Bàn Tử: "Cái đệch, hóa ra đơn giản như vậy! Đừng ăn nữa! Chúng ta về luôn đi!" Nói xong tôi vọt thẳng ra ngoài.

Bàn Tử mới ngoạm hết có nửa đĩa thịt, suýt nữa thì phun ra, gào lên: "Lại không ăn? Buổi trưa cũng không ăn! Mẹ nhà cậu mời khách cái kiểu này đấy à?"

Tôi đang vội quay về để chứng thực suy đoán của mình, bèn quay đầu lại bảo với anh ta: "Thế thì anh ăn xong hẵng qua."

Bàn Tử xoay một vòng tại chỗ cũng chẳng cách nào giữ được tôi, đành phải chạy theo, trước khi đi còn quát lên với bồi bàn: "Bàn đồ ăn này cấm được dọn! Bàn gia trở về còn ăn tiếp. Mẹ nó bố kiểm tra rồi đấy, thiếu cái rễ hành thôi là bố về bố đập nát biển hiệu nhà chúng mày ra!" Nói đoạn liền theo tôi ra cửa.

==============

 Đây là món thịt ba chỉ kho nhừ kiểu Đông Pha~


Chương 34. Bí mt tht s ca băng ghi hình

Lâu Ngoại Lâu cách cửa hàng của tôi không xa, tôi bèn vội vã chạy bộ trở về. Vương Minh tan tầm vào lúc năm giờ mười lăm phút. Cậu này thuộc loại tuyệt đối không ở lại thêm nửa phút nên cửa đã khóa từ lâu. Tôi bèn mở khóa chui tọt vào phòng trong. Cuộn băng A Ninh mang đến cô ta đã lấy về rồi, tôi liền lục ra hai cuốn băng khác của mình. Bàn Tử bám sát theo sau, tiến đến giúp tôi cắm điện.

Thế nhưng ý định của tôi không phải lần nữa xem lại cuốn băng, mà lục lọi ngăn kéo lấy ra một chiếc tuốc-nơ-vít.

Bàn Tử thấy vậy thì chẳng hiểu mô tê gì cả, bèn hỏi tôi định làm gì đấy. Tôi trong lòng nhộn nhạo hết cả rồi nên cũng không buồn trả lời anh ta nữa mà bắt đầu tháo tung cuốn băng từ ra.

Nếu như suy đoán của tôi không sai thì vấn đề này thật đơn con mẹ nó giản quá mức, thậm chí chính bản thân tôi cũng đã làm rất nhiều lần.

Hai cuộn băng từ, trong đó một cuốn lại là băng trắng. Như vậy nói lên rằng, nội dung bên trong cuốn băng căn bản không quan trọng. Thứ đối phương muốn gửi cho tôi chính là bản thân cuốn băng ghi hình chứ không phải để chúng tôi xem nội dung bên trong, cho nên bên trong chỉ là băng trắng, hoặc cho dù có hình ảnh thì cũng chẳng liên quan một tý nào. Vậy người đó gửi cuốn băng đến, chỉ có một lý do, một lý do đơn giản đến không thể đơn giản hơn, mà phỏng đoán của tôi cũng có thể kiểm chứng cực kỳ dễ dàng.

Trước kia, hồi còn học trung học, thứ này tôi cũng từng mó máy không ít rồi nên việc mở nó không khó chút nào, chỉ như một cộng một bằng hai. Tôi tách cuốn băng ra, sau đó cẩn thận cầm một bên lên, run rẩy. Bàn Tử đang đứng cạnh xem liền kêu lên một tiếng kinh ngạc.

Mặt trong của cuốn băng ghi hình, ở một bên phần vỏ nhựa plastic quả nhiên có dán một thứ.

"Con bà nó gấu quá đi mất, sao cậu nghĩ ra được thế?" Bàn Tử kinh ngạc hỏi.

Tôi nhếch mép, nhưng cũng không cười nổi, phát cho anh ta một cái: "Là anh nghĩ ra đấy chứ". Kéo vật kia ra xem xét, tôi lại "ui chao" lên một tiếng, chỉ cảm thấy ruột gan quặn hết cả lên.

Đó là một tờ giấy viết thư, mặt trên có mười mấy chữ viết rất ngoáy.

Tỉnh Thanh Hải, thành phố Cách Nhĩ Mộc, đường Côn Luân, ngõ Đức Nhi Tham, số 349-5.

Người biết chữ nhìn một lần là hiểu: đó là một địa chỉ ở thành phố Cách Nhĩ Mộc.

"Choáng chưa." Tôi bất giác học theo lối nói Bắc Kinh, lau lau cái trán đẫm mồ hôi, trong lòng sinh ra một cảm giác hớn hở. Mãi rồi tôi cũng đoán trúng được một chuyện, hóa ra đúng là tại tự mình nghĩ phức tạp quá lên thật.

Trò này đúng là một mũi tên trúng những hai con chim. Thứ nhất là có thể bảo vệ món đồ này không bị phá hỏng trên quãng đường vận chuyển dài. Thứ hai là, nếu thứ này có bị người ta chặn được, thì trong lúc nhất thời đối phương sẽ không nghĩ tới còn có đồ giấu ở bên trong. Đặc biệt là nếu như nội dung cuốn băng ghi hình kia đủ để lôi kéo sự chú ý của kẻ ăn chặn nó.

Trong lòng đã sáng tỏ, tôi có thể khẳng định rằng kẻ ăn chặn cuốn băng mà đối phương phải đề phòng nọ chính là chú Ba. Bởi vì chí có chú Ba mới hoảng hốt khi xem nội dung cuốn băng. Sự thật đúng là như thế. Chú thực sự đã bị nội dung bên trong cuốn băng lôi kéo toàn bộ sự chú ý.

Vấn đề này chỉ cần suy đoán một chút là sẽ thấy rất rõ ràng. Bởi vì nếu người ta gửi bưu điện thẳng tới địa chỉ này, dựa theo tình huống lúc đó thì món đồ này tất nhiên sẽ lọt vào tay chú Ba, giống y như phần bản sao sách lụa Chiến Quốc hồi mới đầu.

Nghĩ thông mấy điểm này rồi, tôi liền cảm thấy nhẹ nhõm thoải mái cực kỳ, lập tức tiếp tục mở tung cuốn băng từ còn lại ra. Bên trong cuốn băng này không phải giấy, mà là một cái chìa khóa bằng đồng thau cũ kỹ, hơn nữa còn là loại khóa 480 thịnh hành từ thập kỷ 80 của thế kỷ trước.

Lấy cái chìa khóa ra, tôi phát hiện thấy chiếc chìa khóa này có phần cũ kỹ lắm rồi, lớp đồng bên ngoài hóa đen hết cả. Phía đuôi chìa khóa có dán một miếng băng dính, bên trên viết một hàng chữ số mờ nhạt: 306.

"Xem ra đối phương muốn mời cậu sang đó." Bàn Tử đứng bên cạnh bèn nói, "Đến cả phòng cũng đặt sẵn cho cậu rồi."

--

Khóa 480:

Chương 35. Thip mi t đa ngc

Tôi nhìn nhìn dòng địa chỉ kia và chiếc chìa khóa mà sững sờ tại chỗ. Bàn Tử nói đúng. Vừa rồi tôi cũng nghĩ đến chuyện này. Xem ra người gửi cuốn băng hình quả thật muốn tôi tìm đến đó. Chiếc chìa khóa này có lẽ là chìa khóa cửa của nơi có địa chỉ ghi ở đây. Kiểu này xem ra dù tôi có đến thì đối phương có khả năng sẽ không ở nhà, người ta là muốn tội tự vào thăm quan hả?

Tôi đột nhiên nảy ra một ý niệm kỳ quái. Không lẽ căn phòng ở kia là nhà của Tiểu Ca? Hắn biết bản thân mình không trở về được, mới nhờ người đem chìa khóa nhà mình gửi cho tôi? Coi như là để lại tài sản cho tôi hả?

Nếu quả thật như thế, vậy tôi cũng nên đến nhà hắn đi, còn có thể hiểu thêm về quá khứ của hắn nữa. Có điều chuyện này nghĩ thế nào cũng quá là không có khả năng...

Ngoài ra, nói vậy thì hai cuốn băng từ của A Ninh kia lẽ nào cũng đính kèm thứ gì bên trong?

Đêm hôm đó tôi trằn trọc khó ngủ, ghé vào mép giường hút thuốc hết điếu này lại đến điếu khác. Thường thì chỉ có những lúc buồn bực tôi mới hút một điếu, nhưng lần này có hút bao nhiêu cũng vô dụng, vẫn thấy khó chịu trong lòng.

Ngồi nhớ lại toàn bộ sự việc, bắt đầu từ lúc tôi mới nhận được cuốn băng hình, đến lúc này khi đã phát hiện được món đồ ở bên trong, thời gian mới chỉ có mấy tháng thôi, nhưng mỗi lần thêm một phát hiện lại làm cho mọi việc trở nên càng thêm mù mờ rối rắm, càng thêm phức tạp hơn.

Thực ra, tuy bí mật của cuốn băng ghi hình đã bị tôi phát hiện, nhưng điều thực sự khiến tôi hoang mang bực dọc vẫn là nội dung ở trong băng. Bất kể đối phương muốn dùng nội dung trong đó để che giấu cái gì, hay chỉ là tiện tay nhặt lên hai cuốn băng, thì nội dung đó chắc chắn vẫn sẽ thu hút toàn bộ sự chú ý của người xem. Mà những nội dung này lại không thể nào làm giả được. Kiểu người như hắn thì không thể nào mà lại quen thuộc với cách ghi hình vào băng được. Vậy thì cuốn băng này hắn lấy được từ đâu?

Băng ghi hình loại đó, tôi có thể khẳng định không chỉ có vài cuốn thế này. Dựa theo dung lượng thời gian của băng thì để ghi hình đủ một ngày phải cần trên dưới tám cuốn. Băng gửi cho tôi một cuốn là băng trắng, một cuốn có nội dung, điều này chứng tỏ đối phương lúc lấy băng ghi hình có rất nhiều lựa chọn. Chuyện đó ít nhất cũng nói lên rằng có khả năng ở nơi đó vẫn còn những cuộn băng ghi hình khác.

Trong băng "Hoắc Linh" và "tôi" tự giám sát hành động của bản thân, tất nhiên phải có mục đích bất đắc dĩ chứ không phải chỉ để đùa cho vui.

Mà đương nhiên thứ khiến tôi để ý nhất vẫn là hai cuốn băng của A Ninh. Tôi vẫn khăng khăng tự xem mình là người ngoài cuộc, một mực tự nhận rằng mình chỉ là kẻ ăn theo nói leo, tự bám theo chú Ba, lần đầu tiên là vì tính hấp tấp của mình, lần thứ hai là vì tình thế bắt buộc, lần thứ ba là vì ù ù cạc cạc nghe theo người ta sắp xếp. Mỗi một lần, chỉ cần nói một tiếng "không" thì sẽ chẳng bao giờ có việc gì dính dáng đến tôi, cho nên sự việc bỗng nhiên đột ngột phát triển đến mức dường như cả tôi cũng bị liên luy vào, tôi thật sự là có chút mất phương hướng.

Có điều lời nhắc nhở của Bàn Tử lúc này khiến tôi như người vừa ngộ đạo. Tôi đã cảm thấy cách suy nghĩ của mình dường như đã quá mức phức tạp rồi. Có lẽ đúng là vì mình có thói quen phức tạp hóa vấn đề lên như vậy nên mới khiến cho sự việc vốn cực kỳ đơn giản trở nên phức tạp. Có lẽ vốn bản thân mọi việc cũng chỉ giống như chuyện này, chẳng rối rắm một tý nào cả.

Tôi nghĩ rất nhiều, lúc này lại nhớ tới lời "Lý Chìm Xuồng" nói với tôi hôm đó, rằng chuyện này có lẽ liên quan đến tôi nhiều dữ lắm. Cứ nghĩ mà xem, chú Ba đã phải vắt óc bày mưu lừa gạt tôi, nếu chú không muốn tôi can dự vào chuyện này, thì tại sao lại muốn cho tôi theo lên núi tuyết? Lời nói của "Lý Chìm Xuồng" thật có lý vô cùng.

(Lý Chìm Xuồng aka Lý Trầm Chu:))

Tôi lại hồi tưởng về quá khứ của mình. Trong ký ức của tôi quả thật là không có bất cứ một tẹo chi tiết nào có khả năng khiến bản thân tôi dây dưa dính dáng gì vào cái vụ này hết. Hồi còn bé, cha tôi là một người bình thường mờ nhạt, hễ có việc gì cũng đều gánh vác vì gia đình. Ông nội tôi làm mưa làm gió một phương, giữ vai trò trụ cột trong nhà. Chú Hai thì đạo mạo kiệm lời, chú Ba thì chơi bời lêu lổng, hư đốn cứng đầu khó dạy bảo. Hết thảy tập hợp lại trở thành ký ức tuổi thơ của tôi. Bọn họ tuy tính tình khác nhau nhưng đều đối xử với tôi rất tốt . Ngay cả chú Hai cũng chỉ khi nhìn thấy tôi mới nở nụ cười với thằng cháu ruột này.

Có thể nói tuổi thơ của tôi tuy không phải hạnh phúc ngập tràn, nhưng có lẽ cũng giống như thời thơ ấu của những người cùng tuổi, chẳng hề có chỗ nào đặc biệt.

Rồi lại đến mấy năm gọi là đại học này, lại càng bình thường đến cực điểm, ký ức cũng càng thêm rõ ràng hơn. Thật sự là tôi chưa từng trải qua chuyện ăn mặc y như người chết rồi bò qua bò lại trong một căn phòng tăm tối bao giờ.

Tôi mất ngủ cả một buổi tối, cứ chong chong nhìn lên trần nhà cho đến tận hừng đông mà nghĩ quàng nghĩ xiên, càng nghĩ lại càng buồn bực. Toàn bộ mọi chuyện cứ như một tấm lưới bủa vây giăng kín chụp lấy tôi, bất kể tôi chạy đến chỗ nào cũng đều chỉ có thể nhìn thấy vô số lỗ hổng mà lại không sao chạy thoát vì những mắt lưới vướng víu cản đường.

Cục diện thành ra thế này cũng là do tính cách của tôi quyết định. Cái loại tính cách tuy do dự nhưng vẫn không chịu từ bỏ của tôi đã khiến sự việc càng phát triển thì càng phức tạp. Có lẽ khi suy luận vấn đề tôi đừng nên bị động như thế, có những lúc không cần cứ phải chờ người khác cung cấp manh mối cho anh thì anh mới chịu suy xét vấn đề. Làm như thế, manh mối người ta đưa cho anh một là không biết được thật hay giả, hai là sẽ luôn gây ra nhiều nhiễu loạn không đúng lúc.

Nghĩ tới đây, tôi đột nhiên cau mày nhớ tới lời khuyên mà đám bạn đưa ra với tôi vào lúc sắp chia tay. Cậu ta bảo: "Nguyên nhân khiến sự việc trở nên rắc rối phức tạp như vậy cũng là vì cậu cứ cố chấp muốn lấy được đáp án từ chỗ chú Ba cậu. Cậu nên nghĩ rằng, nếu chú Ba cậu đã lừa gạt cậu rồi thì tức là chắc chắn ông ta không muốn để cậu biết bất cứ chuyện gì, như vậy chú Ba cậu sẽ không có khả năng nói thật với cậu nữa. Dối trá lại kéo theo dối trá, cậu càng hỏi thì chỉ càng khiến bản thân cảm thấy bất cứ điều gì trên đời cũng chẳng còn đáng tin, thông tin sẽ càng lúc càng loạn xạ xà ngầu. Nếu cậu muốn tìm ra chân tướng sự việc, chi bằng tự mình tìm đáp án đi. Ví dụ như đội thám hiểm cậu nói đó có mười người hay mười một người, cậu cứ tra trong tài liệu có liên quan vào năm đó ấy. Tóm lại, muốn phân biệt được lời chú Ba cậu nói là thật hay giả, có nhiều cách lắm."

Giờ này ngẫm lại, quả thực cậu ta nói không sai.

Được rồi! Tôi tự nhủ với chính mình, mẹ kiếp, nếu vấn đề này đã liên quan đến chính tôi, thì tôi đây thực sự cũng cóc thèm tin ai nữa. Lần này tôi sẽ không nói với bất cứ ai, tự mình đi Cách Nhĩ Mộc điều tra xem đây rốt cuộc là có chuyện gì xảy ra."

Chương 36. Tòa nhà ma

Không làm thì thôi chứ đã làm thì đừng lề mề. Ngày hôm sau tôi liền lên kế hoạch đi luôn Cách Nhĩ Mộc.

Vì vùng đó tôi chưa từng đến bao giờ, nên tôi tìm người bạn làm ở công ty du lịch hỏi thăm xem tuyến đường đi lại như thế nào. Người bạn này bảo với tôi rằng, vì không có tuyến bay thẳng đến Cách Nhĩ Mộc nên tôi chỉ có thể xuống sân bay Song Lưu ở Thành Đô trước, sau đó tiếp tục đổi máy bay. Vé máy bay thì cứ để cậu ấy lo, thậm chí đặt phòng khách sạn tại địa phương cũng OK hết. Tôi liền để cậu này giúp tôi xử lý. Vì nơi đó cũng không phải nói đi là đi ngay được nên tôi đặt vé chuyến bay hai ngày sau.

Lần này không phải đi đổ đấu mà chỉ là lượn vài vòng trong thành phố Cách Nhĩ Mộc, hơn nữa cũng không ở lại lâu lắm nên tôi chỉ mang theo vài bộ đồ lót và một ít tiền mặt, gom hết lại nhồi vào một cái ba lô mà vẫn còn thừa chỗ.

Cùng ngày hôm đó Bàn Tử về Bắc Kinh, tôi cũng không đả động gì đến chuyện này với anh ta. Nếu đã quyết định sẽ không nói với ai rồi, vậy Bàn Tử cũng không phải là ngoại lệ.

Trong thời gian hai ngày này, tôi dặn dò Vương Minh, bảo cậu ta quản lý chuyện cửa hàng, rồi mập mờ thông báo với gia đình một chút, lại sắp xếp một vài mối quan hệ. Hai ngày sau tôi lên máy bay.

Suốt đường đi tôi ngủ thẳng một mạch, đến sân bay Song Lưu ở Thành Đô[] thì ngủ đã đời con mắt rồi, trong mấy giờ bay đi Cách Nhĩ Mộc tôi bèn suy nghĩ về vụ việc ngay trên máy bay luôn. Hơn tám giờ tối hôm đó tôi mới đặt chân đến thành phố Cách Nhĩ Mộc, vốn được mệnh danh là "Cao nguyên khách sạn".

Nơi đây là một thành phố huyền thoại. Trong tiếng Tạng cái tên Cách Nhĩ Mộc có nghĩa là "nơi sông ngòi giăng kín". Tuy rằng trên suốt đường bay chỉ thấy toàn sa mạc, nhưng cũng có thể tưởng tượng được hình dạng của thành phố vào thời điểm cái tên đó ra đời. Trên máy bay tôi xem mấy tài liệu, thấy nói rằng thành phố này do "cha đẻ của con đường Thanh Tạng"[] là tướng quân Mộ Sinh Trung, năm đó đã đưa khu lều bạt của những công binh tu sửa con đường Thanh Tạng vào lập đồn đóng ở đây, sau đó liền trở thành một thành phố. Thành phố mới có hơn 50 năm lịch sử, trước kia vô cùng phồn thịnh nhưng sau này địa vị dần dần bị thay thế bởi Lhasa, vì cả thành phố nằm ở vị trí tương đối không thuận tiện.

Sau khi máy bay hạ cánh, kẻ vô cùng mất mặt là tôi liền gặp phản ứng cao nguyên[3], ngất xỉu luôn ngay tại chỗ cửa ra của phi trường trong khoảng hai ba giây. Cái cảm giác này không giống như hồi tôi hôn mê vì kiệt sức ở Tần Lĩnh, mà là một loại cảm giác giống như cả thế giới chạy vụt ra xa khỏi mình, nhoáng cái mọi cảnh vật đều tối sầm lại, sau đó thì tôi gục xuống hôn đất. Cũng may hai ba giây sau tôi lập tức tỉnh lại, thấy mình lúc này đang nằm thẳng cẳng trên mặt đất rồi. Điều càng mất mặt hơn nữa là lúc tôi đi mua thuốc mới biết hóa ra mình đang ở trên cao nguyên Thanh Tạng. Tôi chưa thuộc địa lý Trung Hoa, thế mà lại không biết Cách Nhĩ Mộc nằm ở cao nguyên Thanh Tạng! Báo hại người bán thuốc còn tưởng rằng tôi lên nhầm máy bay.

Sau khi vào một quán trà Tây Tạng mua một chén trà bơ 5 xu uống ực hết với thuốc, tôi bèn đến nhà nghỉ mà cậu bạn đã sắp xếp, bố trí ổn thỏa chỗ ở. Sau đó, bất chấp cái đầu đau như búa bổ, tôi vẫn tiếp tục hành trình không ngừng nghỉ, lên thẳng một chiếc taxi, lấy tờ địa chỉ kia ra bảo tài xế đưa tôi đến đó.

Nhưng bác tài xem địa chỉ xong lập tức lắc đầu nói rằng chỗ ấy là một cái ngõ rất chật, xe hơi không lái vào được đâu. Khu vực đó toàn là nhà ở cũ kỹ, đường xá chật chội lắm. Anh ta có thể đưa tôi đến địa điểm gần đó, cách một con đường, còn sâu hơn nữa ở bên trong thì tôi phải tự mình vào mà hỏi.

Tôi nghe xong cũng đồng ý, bảo anh ta cứ lái đi. Không lâu sau tôi đã tới khu nhà cũ của thành phố.

Bác tài bảo cho tôi hay rằng Cách Nhĩ Mộc là thành phố mới được xây dựng, đường xá bình thường đều rộng rãi. Năm đó khu nhà cũ cũng được mở rộng vô số lần, nhưng khắp nơi đâu đâu cũng có những khu nhà nhỏ nhỏ như vậy, lại do vị trí bất tiện nên vẫn cứ để lại y nguyên. Những ngôi nhà trệt này phần lớn đều được xây vào những năm 60, 70 của thế kỷ trước, bên trong toàn bị cơi nới trái phép. Địa chỉ tôi tìm cũng nằm ở một con hẻm nhỏ trong số đó.

Lúc tôi xuống xe đã là những phút cuối cùng của hoàng hôn. Bóng tối sầm sì ụp xuống, lấm tấm những vệt nắng chiều dần tàn. Tôi ngẩng đầu nhìn lên, trong chỗ khuất sáng chỉ thấy một dãy dài những chiếc bóng đen sì của những ngôi nhà lợp ngói. Chỗ này toàn là nhà tập thể kiểu quân đội[4] xây từ nhưng năm 60, 70 của thế kỷ trước. Giờ này nhìn sang, khu nhà cũ hiện lên có vẻ đặc biệt huyền bí.

Bước vào nhìn thử bốn phía tôi mới phát hiện ra chỗ này kỳ thực cũng không thể gọi là "khu" nữa, mà chẳng qua là vài đoạn phố cũ còn sót lại sau khi mở rộng đô thị. Những kiến trúc này một là không có giá trị văn hóa, hai là không được kiểm tra sửa chữa định kỳ nên trông có phần chông chênh sắp đổ, chắc cũng chẳng trụ lại trong cõi người được bao lâu nữa. Mà trong khu phố cũ này cũng chẳng có bao nhiêu người sinh sống, chỉ thấy lèo tèo vài tiệm cắt tóc nhồi nhét giữa những tòa nhà. Mớ dây điện đen sì sì vắt ngang qua các căn nhà cũ kỹ xen lẫn với ánh đèn màu của tiệm cắt tóc, tạo ra một cảm giác khá là quái gở.

Tôi tạt ngang tạt dọc trong đó ước chừng hai giờ đồng hồ, đi tới đi lui làm cho cô em(*)trong tiệm cắt tóc còn tưởng tôi muốn ăn vụng mà chẳng có gan, còn mở cửa nhìn tôi cười cười. Nhưng quả thật đúng như bác tài taxi đã nói, đường xá nơi đây quá hỗn loạn, rất nhiều gõ nhỏ là do cơi nới trái phép mà ra, đến cả cái bảng tên đường còn không có thì hỏi thăm người ta cũng chẳng ăn thua. Mấy người cán bộ công nhân viên từ bên ngoài vào cũng đều lắc đầu cười thông cảm, đại loại tỏ ý bọn họ cũng chẳng biết chỗ đó ở đâu.
(*Nguyên văn là "tiu thư", ý ch gái bao. Quán này là dng quán gi đu "thanh n" =")))))

Có địa chỉ hẳn hoi mà vẫn không tìm được, đây là lần đầu tiên tôi gặp phải loại chuyện này. Tôi vừa đi vừa cười khổ, cảm thấy sự đời thật là phong phú quá. Đúng vào lúc tôi đã vòng đi vòng lại đến váng cả đầu thì từ phía sau một chiếc xe lôi(**) mui vàng trờ tới. Anh xe lôi hỏi tôi có muốn lên xe không? Tôi cuốc bộ cũng mệt lắm rồi, bèn yên vị trên xe cho anh ta chở đi lòng vòng.
(** loi xe ging xích-lô nhưng ch khách ngi đng sau người lái. Loi xe này trước kia khá thnh hành Sài Gòn, nhưng gi chc cũng tuyt chng ri, my ln mình vào không thy na ;;___;; )

Anh xe lôi người dân tộc Hán, đoán chừng hồi trước cũng từ miền Nam lên, thấy tôi nói giọng Nam thì hay chuyện hơn hẳn. Anh ta nói với tôi mình là người Tô Bắc (phía bc Tô Châu), họ Dương nên người ta gọi là Nhị Dương. Anh ta đạp xe lôi ở đây đã mười hai năm rồi, hỏi tôi muốn đến chỗ nào chơi, thích giá cao hay giá thấp, kiểu Hán hay kiểu Tạng. Mấy cô em bé nhỏ người Duy Ngô Nhĩ anh ta đều biết cả, đi trọn gói còn làm quả giảm giá 20%. Nếu cái đó không hợp khẩu vị, thì du lịch anh ta cũng chơi tuốt. Cách Nhĩ Mộc không có danh lam thắng cảnh di tích gì, nhưng xung quanh sa mạc Gobi có cảnh đẹp nào nổi tiếng anh ta đều biết hết.

Tôi cười thầm, tự nhủ rằng nếu cha anh đặt cho anh cái tên ba chữ thì anh có thể đổi tên thành Hằng Nguyên Tường rồi đấy. Có điều nghe anh ta nói đến đây, tôi trong lòng giật nảy, thầm nghĩ mấy anh xe lôi này bươn chải ở đây nhiều năm rồi, phố lớn ngõ nhỏ phần lớn đều đã thuộc nằm lòng, sao tôi không hỏi thêm vài câu, biết đâu lại moi được ra chút gì từ miệng anh ta ấy chứ.
(Hng Nguyên Tường là mt thương hiu kinh doanh đ mi th trên đi, ai mua gì cũng bán, ai bán gì cũng mua. Đng ch DMC nhà bn quá na kh năng cũng xut phát t Hng Nguyên Tường ;;____;; )

Vì vậy tôi liền đưa địa chỉ cho anh ta xem, hỏi anh ta có biết cái chỗ này hay không.

Vốn cũng chẳng ôm bao nhiêu hy vọng, nhưng tôi vừa hỏi xong thì "Hằng Nguyên Tường" liền gật đầu nói là biết. Nói xong anh ta liền nhấn bàn đạp, chỉ trong chốc lát đã đạp đến một con ngõ nhỏ vô cùng hẻo lánh.

Hai bên đường là nhà cửa cũ kỹ, dưới ánh đèn đường vàng vọt gần như chẳng có người qua lại. Lúc anh ta dừng hẳn xe thật thì tôi sợ phát khiếp, cứ tưởng mình bị bắt cóc rồi. Anh ta thấy bộ dạng tôi như vậy cũng cứ cười mãi, bảo với tôi rằng đã đến chỗ tôi muốn tìm rồi.

Tôi ngẩng đầu nhìn lên thì thấy đó là một tòa nhà ba tầng và một sân. Dưới ánh đèn đường, tòa nhà nhìn vào tối om om, chỉ có thể thấy tường bao bên ngoài, bên trong tựa hồ chẳng có lấy một ai. Cả căn nhà toát ra quỷ khí âm u.

Tôi ớ ra, hỏi anh phu xe xem đây rốt cuộc là chỗ nào. Anh ta nói: chỗ này hồi năm 60 của thế kỷ trước là trại an dưỡng của giải phóng quân, đã bỏ hoang từ rất lâu rồi.

--

Chú thích.

Btw, Cách Nhĩ Mộc tên tiếng Anh là Golmud, nếu ai có nhu cầu tìm hiểu thêm về những hình ảnh của nó :">~

[1] Sân bay Song Lưu là một cảng hàng không quốc tế lớn nằm ở phía bắc Thành Đô, Tứ Xuyên.

[2] Con đường Thanh Tạng là con đường cắt qua toàn bộ cao nguyên Thanh Tạng, là một phần của quốc lộ 109, khởi đầu từ Tây Ninh ở phía đông tỉnh Thanh Hải, kéo dài đến thủ phủ của Tây Tạng là Lhasa. Con đường này chủ yếu do công binh xây dựng, do tướng Mộ Sinh Trung phụ trách, thông xe vào tháng 12 năm 1954.

[3] Phản ứng cao nguyên là phản ứng xảy ra khi cơ thể chưa kịp thích nghi với lượng oxy thiếu hụt trong môi trường không khí loãng của cao nguyên, triệu chứng gồm: đau đầu, thở dốc, huyết áp tăng, chóng mặt, chảy máu cam.

[4] Là một loại nhà tập thể đặc trưng giành cho quân nhân Trung Quốc vào thời kì đó, gồm một tòa nhà xây vuông vức đơn giản, có khoảng vài ba tầng, mỗi tầng gồm độ hơn chục phòng, nhà tắm và nhà xí dùng chung cho toàn khu.

-trà bơ Tây Tạng :">

Có 2 loại trà bơ phổ biến, một loại được làm từ trà đen và một loại được làm từ trà xanh. Trà được nghiền nhuyễn và đun với nước trong 1 vài phút, sau đó lọc lấy nước trà, cho thêm sữa dê hoặc sữa bò Tây Tạng, một chút bơ yak, cho thêm chút muối và khuấy đều lên. Tách trà sẽ có hương vị đậm đà của bơ yak và muối, mùi thơm nhẹ nhàng của trà và vị béo của sữa. Trà được đựng trong một loại thùng gỗ đặc biệt kiểu Tạng sau đó người ta tiếp tục rót trà cho vào một cái bình nhỏ hơn, hâm nóng và dùng trà kèm với bánh làm từ lúa mạch hoặc ngũ cốc để có thể cảm nhận hết được vị ngon của tách trà.

Bơ bò Yak :">

Chương 37. Phòng 306

Tôi xuống xe trả tiền, đứng ngoài cổng đối diện với tấm biển số nhà đã mờ tịt, phát hiện ra địa chỉ trên tờ giấy chính xác là ở đây, trong lòng có phần sợ hãi. Tôi tự nhủ, đây chẳng phải là cái loại nhà ma không người ở mà hồi bé chúng tôi thường đến thám hiểm sao, thế quái nào mà lại có người muốn tôi đến cái nơi như thế này cơ chứ? Bên trong còn có người ở nữa à?

Anh xe lôi vẫn còn đang đếm chỗ tiền lẻ tôi trả. Tôi bèn quay đầu lại hỏi anh ta, người sống trong này là ai thế?

Anh xe lôi chỉ lắc đầu, bảo rằng anh ta cũng không rõ lắm. Anh ta chỉ biết đây là trại an dưỡng được xây dựng từ những năm 60 của thế kỷ trước. Cách Nhĩ Mộc là thành phố nhà binh, rất đông sĩ quan quân đội, rất nhiều quan chức lãnh đạo thường xuyên đến đây thị sát. Trại an dưỡng này là dành cho các vị lãnh đạo thời ấy đến ở. Vào giữa những năm 80 thì trại an dưỡng này bị hủy bỏ, đem sửa đi làm thành nhà hát kịch, cho nên anh ta cũng đã từng đến đây rồi. Thời bấy giờ ở Hà Đông Hà Tây cũng có mấy nơi giống thế, tôi còn khá may mắn mới gặp được anh ta đấy, chứ nếu chẳng may vớ phải mấy tay xe lôi từ miền Bắc tới thì đảm bảo chẳng tìm thấy chỗ này đâu.

Tôi nghe xong nửa tin nửa ngờ. Anh xe lôi đi rồi, cả con đường chỉ còn mỗi mình tôi. Tôi ngó nghiêng trái phải hai bên, thấy tối mò như hũ nút, chỉ có trước cửa tòa nhà này mới có một ngọn đèn đường tù mù thì cảm thấy có hơi hoảng. Nhưng mà nghĩ lại thì bản thân mình đến cả cổ mộ còn từng mò xuống lúc quá nửa đêm, chỗ này có mỗi cái tòa nhà cũ thì sợ sệt nỗi gì, bèn lập tức đẩy cửa nhà mà vào.

Bên ngoài tòa nhà có tường bao, cửa vào là cửa vòm, cánh cửa là một phiến gỗ lim, không có vòng gõ cửa. Đẩy thử vài cái thì phát hiện sau cửa có khóa sắt, không mở ra được. Có điều chút trở ngại đó không làm khó được tôi đâu. Tôi nhìn quanh quẩn một vòng rồi tới chỗ cột đèn, leo vài phát lên trên rồi phi qua bờ tường vây. Đây là bản lĩnh phá phách ngày bé tôi luyện được, xem ra còn chưa đến nỗi lụt nghề.

Khoảng sân bên trong toàn là cỏ dại, nhảy xuống rồi mới thấy nó được lát gạch xanh, nhưng bị cỏ dại mọc um tùm xen giữa các kẽ hở. Trong sân còn có một cái cây to đã chết queo, đổ rạp vào một bên tường nhà.

Bước đến trước tòa nhà nhỏ, tôi mở bật lửa ra soi sáng mới thấy rõ được cái sự hoang tàn của nó. Song cửa được trạm trổ hoa văn, có điều cũng đã rã rời, khắp nơi mạng nhện chăng kín dọc ngang, cửa ra vào dùng khóa sắt móc chặt, dán giấy niêm phong.

Tôi giật một cánh cửa sổ xuống, cẩn thận hết sức mà bò vào. Bên trong cũng được lát gạch xanh, bụi bặm đóng cả một tầng dày. Đằng sau cánh cửa là một đại sảnh gần như trống trơn chẳng có đồ đạc gì cả. Tôi giơ cao cái bật lửa, cẩn thận soi một vòng thì chợt thấy có chút quen quen, vừa nhớ lại mồ hôi lạnh liền túa ra.

Đại sảnh này chính là chỗ ở trong băng ghi hình của A Ninh, nơi mà "tôi" bò lết trên sàn nhà.

Đến đúng chỗ rồi đấy, tôi tự bảo với chính mình. Tôi đứng vào góc độ của máy quay phim ở trong băng ghi hình nhìn thử, những viên gạch xanh kia, những cánh cửa khắc hoa này, góc độ giống y như đúc. Tôi càng lúc càng khẳng định được suy đoán của mình, trong lòng sinh ra một loại cảm giác vừa hoảng sợ vừa hưng phấn.

Đi tiếp vào trong thì thấy ngay bên trái của đại sảnh có một chiếc cầu thang xoắn ốc bằng gỗ, là loại rất đơn giản, nhưng tốt xấu gì cũng là cầu thang xoắn ốc, thông lên lầu hai. Tôi rón ra rón rén lại gần, ngước nhìn lên trên lầu thì thấy phía trên cầu thang cũng là một màn đen bao phủ, không có chút ánh sáng nào.

Tôi móc chiếc chìa khóa ra từ trong túi. Phòng 306, vậy thì hẳn là ở lầu ba.

Chỗ này ít nhiều gì cũng có chút khác thường. Tôi cúi đầu chiếu sáng mấy bậc cầu thang, phát hiện thấy trên bậc cầu thang bụi bám dày đặc, thế nhưng trong đám bụi vẫn có thể thấy một ít dấu chân, rõ ràng là ở đây vẫn có người đi lại.

Tôi nhẹ nhàng đặt chân bước lên bậc cầu thang, làm phát ra âm thanh kẽo kẹt, nhưng hẳn là nó vẫn có thể chịu được sức nặng của tôi. Tôi cắn răng cẩn thận từng chút một đi lên phía trên.

Trên lầu tối đen như hũ nút, còn thêm cái thứ tiếng kèn kẹt của gỗ cọ vào nhau, khiến cho tôi thấy hơi hoang mang hoảng hốt. Nhưng chỗ này dù sao cũng không bằng cổ mộ, thần kinh tôi vẫn còn cầm cự được.

Cứ đi thẳng lên trên, đến tầng hai tôi liền phát hiện ra hành lang dẫn vào đó đã bị người ta dùng xi-măng trát kín. Không hề có cửa, bị bịt kín hết toàn bộ rồi. Dựa vào không gian dưới lầu thì có thể thấy phía sau tường xi măng có lẽ còn có rất nhiều phòng. Hình như là để cách ly mới dựng lên nên thợ đổ xi măng làm rất ẩu.

Tôi sờ lên vách tường, cảm thấy có điểm kỳ quái. Chẳng lẽ kết cấu của tòa nhà này gặp vấn đề nên mới phải gia cố chỗ này lại sao?

Có điều có thấy kỳ quái cũng chẳng làm được gì. Lúc này tôi cũng không thừa hơi mà nghĩ những vấn đề này nữa, bèn tiếp tục lên đến tầng ba. Thứ tôi nhìn thấy chính là một dãy hành lang đen kịt. Hai bên hành lang đều là phòng ở, nhưng dưới tất cả những khe cửa đều không lộ ra chút ánh sáng nào, hẳn là không có người, mà trong không khí nồng nặc một thứ mùi cực kỳ khó ngửi do nấm mốc tỏa ra.

Tôi tập trung tinh thần bình tĩnh lại, cẩn thận từng bước tiến vào hành lang. Lách qua từng đám mạng nhện, tôi thấy trên những cánh cửa phòng kia có gắn các tấm biển sơn số phòng đã bị bụi bặm phủ kín. Tôi bèn đọc một loạt, có chút cảm giác mình cứ như nhân vật chính trong mấy bộ phim kinh dị Âu Mỹ. Không lâu sau, tôi đã đến trước cửa căn phòng thứ hai đếm từ phía trong ra. Tôi giơ chiếc bật lửa đã nóng rẫy, chiếu lên cánh cửa, liền thấy trên bậu cửa có một cái biển số cực kỳ mờ nhạt: 306.

Trong một tích tắc kia tôi bắt đầu muốn gõ cửa, nghĩ lại thì thấy thật nực cười, vì vậy tôi do dự trước cánh cửa một chút rồi móc chiếc chìa khóa ra. Tôi cắm chìa vào lỗ khóa trên cửa xoay liền một vòng. "Loạch xoạch" một cái, theo tiếng bản lề ma sát chói tai, cánh cửa bị tôi nhẹ nhàng đẩy mở vào trong.

Gian phòng này không lớn, bên trong tối mò mò, bước vào liền thấy mùi nấm mốc trong phòng cực nặng. Đầu tiên tôi mở hé cửa nhìn vào thăm dò, thấy phía bên kia phòng có lẽ là có cửa sổ nữa, vì ánh đèn đường bên ngoài chiếu tận vào bên trong, phác ra những đường nét đại khái của căn phòng, Trong phòng, phía sát tường hình như bày biện rất nhiều đồ gia dụng, đèn đường từ bên ngoài hắt ánh sáng vào tạo ra những cái bóng mờ mờ nên không phân biệt được rõ ràng. Chỉ có điều vừa nhìn là biết không có người ở.

Tôi hít một hơi thật sâu, cẩn thận dò dẫm bước vào, giơ cao cái bật lửa nóng rẫy. Dưới ánh lửa yếu ớt, mọi vật ở khắp bốn phía đều rõ ràng hẳn lên.

Đây là một phòng ngủ đơn. Tôi nhìn thấy một chiếc giường nhỏ kê trong góc, mùi mốc meo là từ chiếc giường này tỏa ra. Lại gần xem, tôi phát hiện chăn chiếu trên giường đã rữa nát đen sì hết cả rồi, bốc mùi cực kỳ khó ngửi. Chăn mền phồng lên, mới thoáng nhìn còn tưởng bên trong còn bọc một người chết. Có điều nhìn kỹ lại thì thấy chỉ là hình dạng của chăn thôi.

Bên cạnh giường có một cái bàn viết, là loại cũ rích như chiếc bàn học hồi tôi còn mài đũng quần ở trường cấp một ấy. Trên mặt bàn là một ít đồ bỏ đi, vải thô, mấy tờ giấy loại và một ít mảng vôi trắng từ trần nhà rơi xuống, mọi thứ đều đóng bụi cả tảng.

Cạnh bàn làm việc là một cái tủ to tướng, rộng phải đến ba bốn mét, còn cao hơn cả tôi. Ván gỗ bên trên có lẽ vì ẩm nên nở ra, cánh cửa tủ bị cong vênh hết cả rồi. Ngẩng đầu nhìn lên trên thì có thể thấy ở trên cái tủ, chỗ tiếp giáp với trần phòng, có một đống lớn những đốm than đá và nước đọng, hiển nhiên là vào ngày mưa thì chỗ đó sẽ bị rỉ nước.

Xem ra nơi này hoang phế đã lâu rồi. Rách nát đến mức này thì chắc cũng phải ngoài năm năm. Có điều căn phòng tuy cũ kỹ nhưng cũng chỉ cũ một cách bình thường. Người gửi băng ghi hình câu kéo tôi đến đây làm gì không biết nữa? Người ta nghĩ tôi sẽ tìm được thông tin gì trong cái phòng này cơ chứ?

Lúc này tâm trạng bồn chồn bất an cũng dần dần bình ổn trở lại cùng khả năng thích nghi với hoàn cảnh của tôi. Tôi thả cái bật lửa xuống mặt bàn, trước hết bắt đầu tìm ngăn kéo của cái bàn viết kia, mở từng ngăn từng ngăn ra một. Có điều bên trong cơ bản đều rỗng không, có mỗi hai ngăn lót báo cũ bên trong, đều mốc meo hết cả, tôi cũng chẳng dám đụng vào.

Không phải trong ngăn kéo thì chẳng lẽ trên giường? Tôi đến cạnh giường, trước hết xem dưới gậm, thấy toàn là mạng nhện chứ chả có cái gì. Sau đó tôi đến đằng kia lôi ra một cái ngăn kéo, dùng làm dụng cụ để khều đống chăn màn dính bết thành cục xuống. Thế nhưng khều khều vài cái thì từ đống chăn tứa ra nước đen nhớp nháp. Bên trong thì ra lại còn có côn trùng, mùi nấm mốc xông lên nồng nặc. Tôi mắc ói đến suýt nữa thì nôn.

Thật không dễ dàng mới tời được hết đống chăn màn này xuống đất mà lại chẳng phát hiện được cái gì. Thật ra vừa khếu mấy cái tôi cũng ý thức được bên trong chả có gì đâu. Ai lại đem đồ vật nào giấu ở cái chỗ buồn nôn thế chứ.

Cả hai chỗ này đều không có, vậy thì chỉ còn lại cái tủ tường to bự, mỗi tội cái tủ này lại có khóa. Tuy cánh cửa tủ đã vênh lên rồi, nhưng mà muốn mở cái tủ này tôi vẫn cần bỏ ra chút sức lực, hơn nữa không có dụng cụ cũng chẳng được.

Tôi lại không mang theo thứ gì trong tay, đành phải tìm kiếm ngay tại hiện trường, rốt cuộc cũng tìm được một thứ ở trên bệ cửa sổ. Đó là cái then cài cửa sổ kiểu cũ, có thể rút ra được. Tuy nó rỉ ngoét ra rồi nhưng then cài cửa hồi xưa ruột đúc đặc, còn bền lắm. Tôi rút lấy một cái dùng làm đòn bẩy, cắm vào khe cửa cong vếu kia, nạy khe hở ra một khoảng đủ để thò ngón tay vào. Sau đó lấy một chân chống lên một mặt, đưa tay với vào cái khe, dùng sức bẻ ra ngoài. Cánh cửa phát ra tiếng cọ sát đáng sợ, bị tôi kéo đến cong véo cả lên, tiếp theo phát ra những tiếng gãy rạn rầm rĩ, cả tấm gỗ cứ như vậy mà gãy đôi ra. Bụi bặm tích trên cửa bay tung tóe, mù mịt đến nỗi tôi không mở nổi mắt.

Vì trong tòa nhà khá yên tĩnh nên những tiếng động tôi gây ra nghe đặc biệt kinh người. Trong khoảnh khắc cánh cửa gãy lìa ra, âm thanh chói tai đó cũng làm tôi sợ đến nỗi cả người đầm đìa mồ hôi lạnh, một lúc lâu sau mới hoàn hồn. Sau đó tôi cầm lấy bật lửa, chiếu vào bên trong tủ.

Trong tủ tường có cái gì, tôi không có một chút dự đoán nào cả, chỉ thấy khả năng lớn nhất vẫn là chẳng có thứ gì đâu, cho nên cũng không chuẩn bị đầy đủ tinh thần cho lắm. Nhưng mà vừa chiếu vào một cái, tôi liền bị dọa một cú kinh hoàng.

Trong tủ tường đúng là trống trơn chẳng có cái gì, nhưng tấm gỗ lưng tủ dựa vào tường đã không cánh mà bay, để lộ ra bức tường xi măng bị cái tủ che khuất. Mà trên bức tường xi măng kia có một cái cổng tò vò tối hun hút, nối với một đường cầu thang dẫn xuống phía dưới, chẳng biết là thông tới nơi nào.

Chương 38. Manh mi

Tôi cảm thấy càng lúc càng quái đản. Rõ ràng ở đây có một cái cửa ngầm, có người dùng một cái tủ mất lưng để che nó lại, chỉ cần mở cái tủ này ra là có thể thấy cửa ngầm phía sau rồi. Biện pháp này chưa được tính là cao tay, nhưng hay ở chỗ tiện bố trí, hơn nữa lại dễ ra vào.

Thế nhưng tại sao ở nơi đây lại có cái kiểu kiến trúc như thế này cơ chứ? Vậy xem ra cái trại an dưỡng này không đơn giản rồi. Chỗ này trước kia rốt cuộc được dùng để làm gì? Không biết dưới chân cầu thang xi măng kia là một nơi như thế nào đây?

Tôi nhìn chiếc chìa khóa trong tay. Rõ ràng đối phương đã gửi chìa khóa gian phòng này cho tôi tức là đã nghĩ đến chuyện tôi sẽ phát hiện lối cửa ngầm này. Như vậy, có lẽ dưới đó có đáp án.

Tôi lau lau mồ hôi lạnh trên đầu, bước vào trong tủ, chui xuống cửa ngầm, lập tức thấy một thứ mùi kỳ quái từ dưới kia xộc tới.

Tôi xoay đầu chờ cho đám mùi nồng nặc nhất đó bay qua, sau đó thích ứng một lát, rồi dùng bật lửa rọi xuống.

Cầu thang sâu không thấy đáy, hơn nữa còn có khúc ngoặt, rõ ràng là khá dài, không biết thông xuống tầng hai hay tầng một.

Nhìn xuống cầu thang, nghĩ đến giờ đã là nửa đêm mà thân tôi thì ở trong một cái nhà ma, lại còn phát hiện ra một cái đường ngầm không biết đã được bố trí từ bao giờ, trong lòng tôi không khỏi có phần hoảng sợ. Nhưng dù sao tôi cũng là thằng từng xuống đấu. Ở những chỗ thế này, tôi biết bên ngoài là đường cái và tiệm cắt tóc, trong lòng tự nhiên sẽ có phần bình tĩnh hơn một tẹo.

Tôi chỉ do dự trong một thoáng là lấy lại được bình tình. Một tay cẩn thận hết sức giơ bật lửa, khom người đi vào trong cái cổng tò vò kia, tôi men theo cầu thang đi xuống phía dưới.

Nếu đã đến nước này rồi thì thứ đối phương chỉ đường cho tôi tìm kiếm dĩ nhiên sẽ ở ngay bên dưới cái cầu thang này. Giờ mà tôi rụt chân lại thì cũng chẳng hay. Đã đi tới tận Cách Nhĩ Mộc, tất nhiên là tôi muốn nhìn xem mục đích của đối phương rốt cuộc là cái gì.

Mới đi được vài bước, tôi đã nhận thấy một thứ cảm giác âm u lạnh lẽo khó tả truyền đến từ bóng tối dưới cầu thang, lạnh lẽo đến mức làm cho người ta chưa rét mà đã run lẩy bẩy. Tôi hà hơi một cái, liền phát hiện thấy sương trắng bay ra từ trong miệng. Như vậy thì nhiệt độ dưới đó xem ra thực sự rất thấp.

Nhìn theo ánh sáng của bật lửa, tôi thấy hai bên cầu thang đều là vách tường xi măng trát thô chưa hoàn thiện. Xi măng là loại xi măng cát vàng, loại dùng trong quân đội vào thập kỷ 60 của thế kỷ trước. Trên đó còn có thể nhìn thấy mờ mờ một ít biểu ngữ quét sơn đỏ, đều đã bay màu đến nỗi chỉ còn đọc ra được mấy nét. Trên trần cầu thang còn có thể thấy dây điện rủ xuống, bị mạng nhện bao kín nên nhìn vào cứ y như một bầy rắn.

So với đám gạch xanh và ngói nhà mồ trong mộ cổ thì những thứ này đã là thân quen lắm rồi. Tôi vừa ám thị bản thân vừa cố hết sức thả lỏng thần kinh. Tuy rằng như thế, tôi vẫn cứ tưởng như dưới chỗ ngoặt của những bậc cầu thang tối tăm này sẽ có thứ gì đó thò mặt ra. Cảm giác sợ đến xương sống mọc gai này thực ra lại chẳng kém tý nào so với khi ở trong cổ mộ.

Rất nhanh, tôi đã xuống hết đoạn cầu thang thứ nhất. Cầu thang ngoặt một cái rồi lại tiếp tục đi xuống. Bước chân tôi phát ra những tiếng vang nghe dựng cả lông tóc. Tôi thử cảm nhận độ cao một lát, thấy chỗ này đã là tầng hai rồi, chính là tầng nhà bị tường xi măng bịt kín kia. Thế nhưng ở đây cũng không có bất kỳ cái cổng tò vò nào, bốn phía vẫn bị bịt kín xi măng, rõ ràng lối ra không phải ở đây.

Xem ra không liên quan đến cái tầng hai kia rồi. Tôi thầm nghĩ rồi hít thật sâu một hơi cái thứ không khí nặng mùi, lại tiếp tục xuống thêm một tầng nữa.

Vẫn là tình trạng như vậy, lối ra không nằm ở tầng một. Cầu thang tiếp tục ngoặt một cái rồi dốc xuống, vẫn tối như bưng không hề nhìn thấy đáy.

Bên dưới là xuống quá mặt đất rồi, tôi thầm nhủ. Lúc này trong lòng tôi xuất hiện một ý nghĩ: lẽ nào cầu thang này thông đến tầng ngầm sao?

Không lẽ nơi này trước kia được dùng để xây công sự ngầm của quân đội?

Tôi vẫn còn nhớ rõ ở Hàng Châu có dinh thự 704 nổi tiếng, cũng được xây dưới danh nghĩa trại an dưỡng, nhưng thật ra kiến trúc bên trong lại đặc kiểu quân sự, thần bí cực kỳ. Nghe nói dưới lòng đất còn có một công trình khổng lồ dùng để đối phó khi ở trong tình huống khẩn cấp.

Có điều nhìn cánh cửa ngầm ở đây thì lại cảm thấy không giống cho lắm. Cửa ngầm này chỉ là một cái cổng tò vò sơ sài. Nếu là lối vào công sự ngầm được thiết lập đặc biệt cho quân đội thì ít nhất cũng phải là cửa sắt chứ.

Tôi vừa đi vừa nghĩ lan man, tiếp tục bước xuống dưới. Chẳng biết là do nhiệt độ hạ thấp hay do cảm giác sinh ra từ mồ hôi lạnh, tôi bỗng nhiên thấy rét vô cùng, hai hàm va vào nhau lập cập đến rớt cao răng. Tôi nghiến răng nghiến lợi xuống tiếp thêm một tầng nữa. Cầu thang đến chỗ này thì dừng lại, lối ra ở ngay trước mặt. Tôi cẩn thận từng tý một mà bước ra ngoài, phát hiện không gian bên ngoài dường như rất rộng.

Tôi giơ bật lửa lên chiếu sáng hai bên lối ra, phát hiện thấy đây là một tầng hầm được gia cố thêm bằng xi măng. Dưới này vô cùng đơn sơ, ẩm sì ẩm sịt, sàn nhà lát gạch xanh, bốn bề thì trống huyếch trống hoác.

Chỗ này chắc chắn không phải công sự ngầm của quân đội rồi, tôi tự xác định trong lòng như vậy. Xem mẫu xi măng này và gạch xanh trên sàn thì thấy cứ y như loại hầm ngầm đại đội sản xuất ở vùng nông thôn xây dựng tạm lên ấy. Tay nghề xây dựng cái nơi này quá sơ sài, không thể là do lính công binh chuyên nghiệp xây được.

Đây là đâu? Không lẽ thật sự chỉ là cái hầm ngầm? Muộn Du Bình mời tôi đến để xem dưa cải hắn muối ăn có ngon hay không ấy hả? (-_-...)

Tôi bị chính ý nghĩ của mình chọc cười, bước tiếp về phía trung tâm của cái hầm này. Đi chưa được vài bước tôi đã láng máng nhìn thấy chính giữa hầm ngầm có một cái bóng khổng lồ nằm ngang trên mặt đất, trông kỳ quặc vô cùng.

Tôi bước về phía cái bóng kia, dùng bật lửa soi thử một cái, người liền cứng đờ lại. Chỉ thấy chính giữa hầm ngầm này đặt một cỗ quan tài cổ khổng lồ đen nhánh.

Chương 39. Kế hoch

Ánh sáng bật lửa cực kỳ yếu ớt, chiếu xa được hai ba mét đã là khá lắm rồi. Dưới cái kiểu ánh sáng như thế mà bất thình lình đập vào mắt một cái quan tài, tôi lại càng sợ đến nhảy dựng cả lên.

Sau khi kịp phản ứng, tôi liền cảm thấy vô cùng kỳ quái, thật sự là chưa gặp cái thể loại này bao giờ. Mẹ nó chứ thế đéo nào mà ở đây lại có một cỗ quan tài, hơn nữa lại còn là quan tài cổ?

Một tòa nhà xây vào những năm sáu mươi bảy mươi của thế kỷ 20, một trại an dưỡng cho các vị lãnh đạo nghỉ ngơi, mà lại có công trình bí mật dưới lòng đất. Nói ra nghe đã thấy khó tin rồi. Bây giờ ở cái chỗ này lại còn xuất hiện một cỗ quan tài nữa, thế thì thật là ly kỳ quá sức tưởng tượng. Kẻ trong quan tài là ai? Chẳng lẽ là sĩ quan quân đội năm đó chết ở đây sao?

Tôi quay ra nhìn sau lưng. Cầu thang lúc đến ngay ở đằng sau, không đến mức tìm không thấy, tôi bèn vững dạ chạy qua xem cỗ quan tài.

Từ xa nhìn lại thì đã biết đây không phải quan tài của người hiện đại. Quan tài màu sắc đen nhánh, được đặt nằm ngang dưới đất ở chính giữa tầng hầm trông thật giống một cái ụ đá hẹp dài khổng lồ. Hình dạng kích cỡ kiểu đó thì đây hẳn là lớp quan quách(*), mà từ thời Dân Quốc trở đi là quan tài đã không còn có quách nữa rồi. Nhìn hình thức cỗ quan tài này thì thấy có lẽ cũng có lịch sử tương đối, ít nhất cũng phải trên sáu trăm năm. Hơn nữa xét kích cỡ thì chỉ sợ nó không phải loại dành cho nhà thường dân, mà ít nhất cũng phải là người có danh vọng mới được dùng.
(*quách nghĩa là mt lp na bc bên ngoài áo quan đt người chết. Ngày nay quan tài hin đi không còn quách na, nhưng ví d sau khi ha thiêu bc xương ct vào trong mt cái tiu sành chng hn, có gia đình vn yêu cu đt tiu sành vào trong 1 quách đá, cho nên mình vn thy Văn Đin người ta bán c quách đá đy )

Tôi lại gần sờ thử một cái, thấy mặt trên có hoa văn tinh tế, lạnh buốt thấu xương. Hình như quan tài bằng đá, nhưng không biết là loại đá gì. Vừa sờ vào một cái, lớp bụi đóng thành tầng trên quan tài đã bị tôi vạch vài vết, để lộ một vài mảng hoa văn nho nhỏ.

Tôi cầm bật lửa tới gần cẩn thận xem xét thì thấy trên nắp quan tài có dấu vết từng bị đục đẽo phá hoại. Khe hở giữa nắp và thân quách cũng có dấu vết bị xà beng nạy vào. Hiển nhiên tôi không thể nào là người đầu tiên phát hiện ra bộ quan quách cực lớn này. Có kẻ đã từng muốn nạy nó ra. Tôi từng có kinh nghiệm rồi, cho nên đối với chuyện này tôi đặc biệt mẫn cảm.

Một cỗ quan tài cổ không thể nào lại vô duyên vô cớ xuất hiện trong hầm ngầm của một công trình hiện đại. Nhất định đã phải có người đưa bộ quan quách này vào đây, mà không biết nguyên nhân là gì.

Nhiệt độ trong hầm ngầm vô cùng thấp. Hơi thở gấp gáp của tôi dần dần bình lặng lại, tôi ra sức thả lỏng để hạ bớt nhịp tim đang nhảy bình bịch. Suốt dọc đường xuống đây tôi đã trải qua một sự căng thẳng cực độ. Mặc dù bản thân đã kiềm chế nỗi sợ, nhưng trong lòng vẫn khá là không thoải mái. Vừa hít thật sâu, tôi vừa bắt đầu suy nghĩ.

Có người đã gửi băng ghi hình, địa chỉ và chìa khóa, kéo tôi vào cái trại an dưỡng cũ nát này, dẫn dắt tôi phát hiện ra cái cửa ngầm kia. Sau khi đi qua cầu thang phía sau cửa ngầm tôi liền phát hiện căn phòng dưới đất, mà trong hầm ngầm còn đặt một cỗ quan tài đá.

Chuyện này đã vượt ra khỏi phạm vi của bất cứ trò đùa quái ác nào. Liệu có phải đối phương muốn báo cho tôi biết, rằng trong trại an dưỡng này đã từng xảy ra một số sự việc nào đó ly kỳ ngoài sức tưởng tượng không?

Xem ra, đằng sau tầng lầu bị bịt kín cùng với tầng ngầm này, và cả cỗ quan tài đá nữa, nhất định phải có cả một câu chuyện tương đối phức tạp.

Tôi đẩy mạnh nắp quan tài đá một cái, dĩ nhiên là không dùng sức quá lớn. Tôi chỉ muốn thử xem có đẩy nó ra được hay không một tý tẹo thôi. Cũng may mà y như phán đoán của tôi, cỗ quan tài đá vẫn trơ trơ bất động, rõ ràng không có dụng cụ thì tôi không thể mở nó ra được.

Tôi thở phào một hơi. Ở dưới chỗ này mà mở nắp áo quan, hơn nữa còn chỉ có một mình, tôi chưa từng có kinh nghiệm nào hết, mở không nổi thì cũng chẳng cần cứng đầu cứng cổ tự ép mình làm chi.

Lại quan sát kỹ một lần các chi tiết trên cỗ quan tài đá, thấy không có gì đáng chú ý, tôi liền bỏ qua bộ quan tài bằng đá này để đi tiếp. Bước thẳng đến phía cuối hầm ngầm, tôi lại thấy một cái cửa sắt nhỏ, rất thấp. Tôi đẩy cửa đi vào, đằng sau là một dãy hành lang.

Tôi chỉ đi vài bước thì liền phát hiện kiến trúc ở đây giống hệt trên lầu: một dãy hành lang, hai bền đều là phòng ở. Chỉ có điều dãy hàng lang này kéo dài một mạch không có điểm cuối, hình như thông đến một chỗ khác nữa, mà phòng hai bên hành lang đều không có cánh cửa, hết sức sơ sài.

Tôi cầm bật lửa đi vào gian phòng thứ nhất, soi thử thì thấy hai cái bàn làm việc dựa vào tường kê ở một bên, xung quanh có mấy cái tủ hồ sơ, trên tường dán đầy mấy thứ linh tinh, dưới mặt đất và trên mặt bàn bừa bộn những giấy tờ.

Chỗ này hình như là một phòng làm việc. Tôi lại càng thấy quái lạ. Vì sao phòng làm việc lại bố trí dưới lòng đất? Làm thế này cũng quá quái đản đi. Trong hầm ngầm dưới đất, một bên là quan tài đá, một bên là phòng làm việc. Lẽ nào hồi đó nơi này là nhà tang lễ của Cách Nhĩ Mộc hả?

Tôi vừa buồn bực vừa đi đến cạnh bàn làm việc, định xem xem trên bàn có manh mối gì không.

Tiến lại nhìn thử, tôi chợt giật mình sửng sốt. Không hiểu sao mà nhìn cách sắp xếp trên chiếc bàn làm việc này, trong lòng tôi lại nảy ra một cảm giác khác thường, dường như tôi đã bắt gặp cái bàn làm việc này ở chỗ nào rồi.

Giơ cao chiếc bật lửa, tôi nhớ lại một lát, rồi thoáng chốc đã phải hít vào đầy một hơi khí lạnh. Tôi lập tức nhận được ra ngay rằng căn phòng này chính là gian phòng mà Hoắc Linh đã quay trong cuốn băng ghi hình nọ!

Cách bày biện trên bàn làm việc, cảm giác về sàn nhà và tường đều giống y như đúc. Tôi đến bên chiếc bàn làm việc, thậm chí còn thấy được tấm gương cô ấy dùng để chải đầu, vẫn còn đặt ở đúng vị trí trong băng ghi hình.

Bỗng chốc tim tôi nhảy dựng lên vì kinh hoàng. Tôi vội vàng hít sâu một hơi, kiềm chế cảm xúc của bản thân, cảm giác quỷ quái trong lòng đã dâng lên đến đỉnh điểm.

Lúc xem băng ghi hình của Hoắc Linh, tôi vẫn chỉ cho rằng cô ấy ở trong một khu dân cư nào đó. Thật không ngờ ấy vậy mà nơi đó lại là trong tầng hầm của một trại an dưỡng thế này, hơn nữa tôi lại còn tìm đến tận đây nữa chứ. Vậy thì rõ ràng những điều này đều có thật. Nội dung được ghi lại trong băng ghi hình là có thật.

Năm đó Hoắc Linh ở ngay tại chỗ này, dùng máy quay phim ghi hình lại chính mình. Cô ta ngồi ở đây không ngừng chải đầu, mà "tôi", rất có thể cũng đã thực sự bò qua đại sảnh ở tầng trên.

Trong tích tắc, trong mắt tôi thậm chí còn xuất hiện ảo ảnh của cô ấy. Tôi và thế giới của cô như chồng chéo lên nhau. Những hình ảnh trong băng ghi hình nhoáng lên một lát ngay trước mắt tôi.

Nhưng đây rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì? Một cô gái trong hầm ngầm bí mật của một trại an dưỡng, cứ chải đầu không ngừng, và một người trông giống hệt tôi thì bò lết như kẻ tàn tật trên hành lang của trại an dưỡng. Những chuyện này đều đã thật sự xảy ra, hơn nữa còn bị ghi hình lại. Rốt cuộc đó là vì mục đích gì? Bên trong cái trại an dưỡng nằm ngoài màn ảnh này, rốt cuộc đã từng xảy ra chuyện gì?

Đầu óc đã hơi đờ đẫn, tôi bắt đầu thấy chóng mặt hoa mắt. Hiển nhiên người gửi băng ghi hình cho tôi đúng là có mục đích lôi kéo tôi đến xem gian phòng này. Thế nhưng sau khi nhìn thấy rồi, ngược lại những ngờ vực trong tôi lại càng tăng thêm, cảm thấy mình dường như đang ghép lại một bức tranh xếp hình toàn chỗ trống, hoàn toàn không biết phải bắt đầu sắp xếp từ đâu.

Lại hít sâu vài hơi một lần nữa, tôi trấn tĩnh một lát, sau đó cầm bật lửa bắt đầu quan sát bốn phía chung quanh. Tôi phải xem xét nơi này một chút, để xem còn có manh mối gì không.

Chương 40. Đo M Bút Ký

(S tay trm m)

Đây là hầm ngầm trong một trại an dưỡng bí ẩn. Ngay tại nơi này, một người phụ nữ bí ấn đã làm ra một số hành động ngoài sức tưởng tượng. Như thế thì, một khi cô ta đã từng sống ở đây, vậy kiểu gì cũng sẽ để lại đầu dây mối nhợ nào đó. Nếu có thể tìm ra một tẹo manh mối thôi, thì có lẽ sẽ hiểu rõ chân tướng sự việc hơn một chút. Cho dù có toàn là một mớ tài liệu vô dụng đi chăng nữa thì từ đó tôi vẫn có thể biết được cuộc sống và trạng thái tinh thần của cô ấy vào thời điểm đó thế nào.

Tất cả những chuyện đã xảy ra trong trại an dưỡng này, tôi gần như không biết lấy mảy may. Vì thế tất cả mọi manh mối đối với tôi đều quan trọng hết.

Tôi bắt đầu lục lọi. Chỉ cần là thứ có thể xem thì kiểu gì tôi cũng phải nhìn một cái.

Trần của tầng hầm này rất thấp. Cơ thể tôi chui trong cái xó này phải chịu cảm giác bị đè nén, thế nhưng vì vậy mà ánh sáng của chiếc bật lửa tương đối phát huy tác dụng, có thể chiếu được ra rất xa. Tôi nhìn sơ sơ bốn phía, quyết định bắt đầu điều tra từ chỗ này.

Trong những hình ảnh đen trắng nhòe nhoẹt của băng ghi hình, tôi không thể nào tự do quan sát toàn cảnh căn phòng một cách tỉ mỉ, nhưng giờ thì có thể rồi, mà những thứ được xem lại còn trực quan hơn nữa. Trước hết tôi tưởng tượng ra dáng vẻ chải đầu của Hoắc Linh, khá là khủng khiếp. Tôi vội lắc đầu để phân tán tư tưởng.

Trong tay tôi là một chiếc Zippo (bt la xăng) có thể cháy sáng liên tục, nhưng đã bỏng rẫy đến nỗi tôi chỉ cần nhích lên trên miết một cái để bật mà cũng miết hết nổi luôn. Tôi bèn tìmtrên bàn một miếng giẻ rách, bọc nó lại rồi dùng tiếp.

Dưới ánh lửa yếu ớt, trước tiên tôi quan sát vách tường. Gian phòng này vách tường bồn bề đều quét vôi trắng, hiện giờ cũng bị bụi bặm phủ kín. Trên mặt tường bên cạnh cửa ra vào có đóng đinh một thanh gỗ tròn cắm mấy cái móc. Đó là nơi dùng để treo quần áo. Bên dưới thanh gỗ có dán giấy báo, đề phòng quần áo mắc bên trên cọ phải vôi tường. Đi qua thanh gỗ tròn lại đến một cái tủ mất cánh. Đây là chỗ Hoắc Linh thay y phục, nhưng giờ bên trong đã chẳng còn lại gì. Lúc tôi đến gần để xem thì phát hiện cái tủ cứ như bị thứ gì đó cào phải, toàn những vết khía rất sâu.

Lại nhìn sang tường bên cạnh, chẳng có cái gì cả, chỉ có dây điện chăng bên trên, tất cả đều đã bạc phếch. Một bên còn có một chiếc cổng tò vò thông sang phòng bên cạnh, không biết đã chẳng bịt kín từ lúc xây, hay là về sau mới bị người ta đập ra. Gian phòng bên đó trống không.

Đối diện với tủ là bàn làm việc, hai chiếc kê song song với nhau, bên trên bày đầy đồ đạc, hình như toàn là mấy tờ báo và mấy thứ đồ bỏ đi mà tôi trông không rõ lắm. Trên vách tường cạnh bàn làm việc dán một đống giấy, đều đã phủ đầy bụi.

Tôi thổi bay đám bụi, đọc qua từng tờ từng tờ một thì phát hiện thấy nội dung các tờ giấy được dán trên tường cực kỳ lẻ tẻ vụn vặt. Tôi thấy hóa đơn tiền điện vào thập kỷ 90 của thế kỷ trước, vài ba dãy số tiện tay viết xuống, chẳng có ý nghĩa gì. Mấy thứ giấy tờ này gần như đã dính tịt lại hòa làm một với mặt tường. Có lẽ đây đều là giấy ghi nhớ để tiện ghi chú khi nghe điện thoại, vì tôi nhớ rõ điện thoại để ở vị trí này. Có điều bây giờ nó đã không còn nữa, chỉ sót lại có một đoạn dây điện thoại mà thôi.

Những thứ này không thể cho tôi bất cứ một thông tin gì. Tôi chỉ biết được rằng lúc sống ở đây cô ấy có sử dụng điện. Tôi thở dài, sau đó bắt đầu lục lọi những văn bản trên bàn.

Những tờ giấy kia đều ngập trong lớp bụi, khẽ động vào là mù mịt cả lên. Tôi cũng không để ý nhiều như vậy, cứ lật mở từng tờ từng tờ một. Giấy bên trong đã mủn cả rồi, có mấy con du diên rất nhỏ bị tôi quấy nhiễu liền hoảng sợ bò ra. Có điều cái thứ này so với lũ tuyết mao tử ở núi Trường Bạch thì chỉ đáng xách dép thôi. Tôi lại nhanh chóng lật lật giấy tờ, rút ra từ bên trong mấy quyển sổ.

Lấy ra rồi tôi liền run lên một chốc, phát hiện ra đây hình như là giấy viết bản thảo đóng quyển loại lớn(*), trước đây khi chưa có máy vi tính thì toàn dùng nó để viết bản thảo. Ở bên trên đã có chữ gì đó.
(* Là loi giy chia sn tng ô đ tin đếm ch khi viết bn tho, mi ch được viết vào mt ô.)

Tôi lật ra, đọc trang đầu tiên. Trên đó có ba hàng chữ:

Phòng sau 2-3
S th t 012-053
Loi: 20, 939, 45

Thế này nghĩa là thế nào? Tôi tự nhủ, hình như là số thứ tự hồ sơ gì đó. Lẽ nào là tài liệu hoặc sách cổ chép tay gì đó sao?

Giở qua trang đầu tiên, vừa nhìn, tôi liền phát hiện ra là không phải: trên trang thứ hai thế mà lại có một bức tranh, vẽ bằng bút bi. Hơn nữa nét bút khá ẩu, nhìn sơ qua không sao biết được là vẽ cái gì.

Tôi lấy lại bình tĩnh rồi tỉ mỉ phân tích, mất năm sáu phút đồng hồ mới nhìn ra được là bức tranh này là vẽ một nhân vật thời cổ đại. Chỉ có điều, người vẽ rõ ràng không thạo việc vẽ vời, nhân vật này bị vẽ thành gần như biến dạng, nhìn vào thấy quỷ dị vô cùng. Nhân vật cổ đại kia trông chẳng giống người, trái lại còn giống y một con hồ ly mõm dài.

Xung quanh nhân vật này còn vẽ rất nhiều đường cong khó tưởng tượng cực kỳ. Sau khi tôi nhìn ra cái thứ quỷ quái kia là một người rồi, ý nghĩa nhân văn của mấy đường cong này cũng rõ ràng hơn, hẳn là bối cảnh đằng sau nhân vật được vẽ kia, có thể là non nước miếu mạo cây cỏ gì đấy.

Tôi không khỏi bật cười, tự nhủ cái gì thế này, không lẽ đây là tranh phác họa của Hoắc Linh à? Cô này sở thích cũng phong phú quá nhỉ.

Lại giở qua, rồi liên tục lật tiếp ba bốn mươi trang, toàn bộ đều là những hình vẽ như vậy. Không có nội dung bằng chữ, tôi liền bỏ qua. Lại xem đến một quyển khác thì thấy cũng giống thế, ngoại trừ nội dung trên trang đầu tiên không giống ra, bên trong đều là những hình vẽ chắng khác nhau là mấy. Tôi chẳng biết nó là cái gì, bèn xếp chồng vào một bên, tiếp tục giở những giấy tờ kia. Kết quả là bên dưới cũng không có gì, chỉ phát hiện bên trong có mấy nùi gì đó na ná giống giẻ lau, ngay cả một tờ giấy có nội dung, lục khắp nơi mà cũng không tìm thấy.

Tôi chửi một tiếng, tự nhủ xem ra lúc bọn họ rời khỏi đây, có khả năng là đem hết những thứ có chứa thông tin đi rồi.

Có điều tôi vẫn không bỏ cuộc. Tôi không tin ai đó lại có thể mang đi sạch bách không chừa lại chút gì. Tôi ngồi vào vị trí Hoắc Linh chải đầu, nghỉ ngơi một lát rồi kéo ngăn bàn trước mặt ra, định xem trong ngăn có cái gì.

Đó là loại bàn làm việc có ngăn. Tôi kéo cái ngăn lớn nhất dưới mặt bàn một cái, liền cảm thấy mình có cửa rồi. Mẹ kiếp cái ngăn kéo này thế mà lại bị khóa cơ đấy, hơn nữa cảm giác còn nặng chình chịch nữa.

Bình thường dọn nhà xong rồi, chẳng ai đem đồ dùng trong nhà khóa lại, hơn nữa cảm giác này cho thấy bên trong có thể có đồ vật. Tôi phấn chấn hẳn lên. Loại khóa này sao có thể làm khó được tôi. Tôi đứng dậy, bẻ một cái móc treo áo sau cửa, cắm vào khe ngăn kéo rồi dùng sức đè xuống, chốc lát đã đè cho khe ngăn kéo mở rộng. Lẫy khóa tuột ra, tôi kéo một cái liền đưa được cái ngăn ra ngoài.

Cầm lấy bật lửa rọi một cái, tôi kêu lên một tiếng "Yes!". Trong ngăn kéo quả nhiên chất đầy đồ đạc. Tôi đặt bật lửa sang bên cạnh ngăn kéo rồi bắt đầu tìm kiếm.

Đây nhất định là ngăn kéo của phụ nữ, bên trong lẫn lộn rất nhiều đồ linh tinh, rất lộn xộn, rõ ràng là lúc rời khỏi đây những thứ còn dùng được đã bị mang đi hết rồi. Đồ đạc còn lại gồm một cây lược gỗ, hộp đồ trang điểm nhỏ trông như cái bánh hồi những năm 90, một chồng bự tạp chí "Điện ảnh thời nay". Những cuốn tạp chí cũ này đã có từ rất lâu rồi, tôi nhớ hồi bé mình còn lấy đọc như văn hóa phẩm đồi trụy đấy. Ngoài ra trong ngăn kéo còn có loại cặp tóc bằng sắt màu đen và rất nhiều phong bì trống rỗng cùng với một quyển album cũng trống không như thế.

Số lượng phong bì rất nhiều nhưng đều chưa từng được sử dụng. Tôi vô cùng kiên nhẫn mở từng phong từng phong ra xem, bên trong chẳng hề có cái gì. Trong cuốn album cũng không có ảnh chụp, có thể thấy vốn nó cũng từng chứa ảnh đấy nhưng đã bị rút hết ra rồi.

Tiếp theo tôi lại lật mấy quyển tạp chí cũ này, giở từng tờ từng trang một cách cực kỳ tỉ mỉ. Thế nhưng vẫn không có phát hiện gì như cũ.

Tôi đổ phịch xuống ghế, cũng chẳng để ý tới bụi bặm bên trên, liền dựa ngay vào đó, có phần mệt mỏi nhìn cái bàn đối diện qua ánh sáng bật lửa lờ mờ. Bốn bề tối đen như mực, yên tĩnh muốn chết, trong lòng tôi cũng thất vọng muốn chết. Rõ ràng là nếu chỗ này thuộc về Hoắc Linh thì người phụ nữ này tương đối kỹ tính, hơn nữa lại còn cố ý không để lại manh mối.

Sự lạnh lẽo khắp bốn phía đã ập xuống "chăm sóc" tôi. Tôi nghiến răng nghiến lợi, không thể bỏ cuộc được. Mẹ kiếp, định luật của Roger đã nói rồi(**), không thể nào không còn thứ gì sót lại được! Tôi nhất định sẽ phát hiện ra được cái gì đó! Tôi tự cổ vũ bản thân một lần nữa, tuy trong lòng đã có vài phần tuyệt vọng. Tôi đóng mạnh từng cái từng cái ngăn kéo về chỗ cũ, đứng dậy nhìn chiếc bàn làm việc phía đối diện.
(** Huân tước Roger Penrose, mt nhà toán hc, triết hc và vt lý hc người Anh. Đnh lut Roger nói trên được phát biu như sau: "H là nhng chuyn đã tng xy ra, nht đnh s đ li du vết". Bác này có v cũng đóng vai trò khá ln trong nhng nghiên cu v vt lý vũ tr, thuyết tương đi rng, vt lý lượng t và cách dùng nó đ gii thích nhng hin tượng siêu nhiên như ma qu hay linh hn =..=)

Bàn đối diện không có ghế để ngồi, tôi liền khom người xuống, phát hiện chiếc ngăn kéo lớn nhất ở giữa đang bị khóa. Thế này thì có hơi kỳ quái. Tôi bổn cũ soạn lại, nạy cái ngăn kéo đó ra.

Tôi hoàn toàn tưởng rằng mình sẽ lại thấy một cảnh tượng giống như ban nãy, phải tự mình lục tìm manh mối giữa một đống rác rưởi bỏ đi. Nhưng vượt quá dự liệu của tôi, lúc này, khi rút ngăn kéo ra xem thì lại thấy bên trong cực kỳ sạch sẽ, trống trơng chẳng có gì, chỉ có một chiếc phong bì lớn vỏ vàng được đặt ở chính giữa. Chiếc phong bì căng phồng, lớn cỡ khổ giấy A4, được đặt ngay ngắn ở đó cứ như là cố tình sắp xếp như thế để chờ tôi đến xem vậy.

"Ơ", trong lòng tôi giật nẩy lên. Ý thức được điều gì, tôi lập tức cầm nó lên xem xét.

Đây là loại phong bì bảo hiểm lao động thời kỳ cuối những năm 80 của thế kỷ 20. Mặt trên còn có chân dung Mao Trạch Đông đã bợt màu. Sờ thử một cái, tôi thấy thứ đồ gì đó ở bên trong rất dày, mỗi tội đã bị ẩm hết, sờ lên xù xì những lông, cảm giác cứ mềm mềm nát nát. Trên phong bì không có bất cứ chữ nào.

Tôi thấy vậy là có cửa rồi, vội vàng lật phong bì lại, thọc tay vào bên trong, sau đó móc ra một quyển sổ tay công tác cũ cỡ bằng quyển tạp chí.

Tôi sững sờ một lát, lật trang bìa ra liền phát hiện trên trang đầu tiên của cuốn sổ tay có một đoạn chữ viết bằng bút máy theo thể chữ Hành, nét bút vô cùng thanh tú:

Tôi không biết cô cu là ai trong s ba người. Nhưng dù có là ai thì thi đim cô cu ti đây phát hin ra phong thư này, tôi tin rng các người cũng đã vướng vào chuyn đó.

Băng ghi hình là th tc bo him cui cùng mà chúng tôi b trí. Băng hình được gi đi, tc là người trong băng ghi hình đã không th nào liên lc được vi tôi. Như vy, cũng tc là tôi đã chết, hoc là "nó" đã phát hin ra tôi, cho nên tôi đã ri khi thành ph này.

Bt k là thuc tình hung nào, nó đu có nghĩa là kh năng không lâu na tôi s ri khi nhân thế. Cho nên băng ghi hình s ch dn cho các người đến đây, đ các người thy được cun s ghi chép này.

Trong cun s tay này có ghi li tâm huyết và kinh nghim hơn mười năm nghiên cu ca chúng tôi. Tôi đ nó li cho các người. Các người có th t đó biết được nhng th các người mun biết.

Có điu, tôi cũng phi nhc nh các người rng: ni dung bên trong có liên quan đến mt bí mt khng l. Tôi đã tng th phi mang theo nhng điu này xung m, nhưng rt cuc vn không th tuân th li ha ca chính mình. Nhng bí mt này, sau khi xem xong ha phúc khó lường. Các người phi t lo ly thân mình cho tt.

Trn Văn Cm

Tháng Chín năm 1995

________________________________

Editor tâm s:

Đến đây, hn đã có mt s bn chú ý đến cái tên chương: Đo M Bút Ký. Chúng mình c tình không dch cái tên này, mc dù s dng cm t "s tay trm m" có v phù hp hơn cho tp tài liu Trn Văn Cm c tình đ li cho Ngô Tà: mt bn sao t cun s tay công tác ca cô y. Lý do ư? Đơn gin thôi, vì t chương này tr đi, cánh ca thc s dn ti nhng bí n ca Đo M Bút Ký mi được m ra. Cùng vi nhng li "lt ty" chú Ba ca anh bn Lý Trm Chu, nhng ghi chép trong s tay ca Văn Cm là th lt li toàn b cc din bàn c, tng bước đt chúng ta vào mt mê cung mi: tng mê cung thc s ca Đo M Bút Ký, nơi đ chúng ta thm thía câu nói mà các bn fan Đo M "bên kia" hay nhc: nhân tâm còn khng khiếp hơn qu thn.

Chương 41. S tay ca Văn Cm

My chương trước đã có bn hi là "sao Ngô Tà không mang đin thoi di đng vào tri an dưỡng mà li dùng bt la Zippo". Mình xin được tr li luôn là do Tam Thúc viết đến ch này thì đin thoi di đng nó ko được ph biến như bây gi đâu các bn , v li hi đó cũng ch có loi màn hình mono như Nokia 1100 thôi, ko phi LCD đâu, cũng ko có chc năng đèn pin. Đến cái đin thoi hường hu ca Hoa chnh chó trùm bng trm m phn 7 mi xut hin, màn hình cũng là mono hết. Trò bn thường xuyên chơi là trò Rn đó ="))))) Đin thoi y mà mang vào nhà ma hay mang đi trm m thì chiếu sáng cũng ch được là bao, cho nên túm cái qun li, trong Đo M các bn hãy c coi như Zippo là nht đi nhé ="))))))))))

.*****

Đọc xong dòng chữ này, tôi phải hít thật sâu một hơi, nỗi kinh hoảng trong lòng quả thực đã không cách nào hình dung nổi.

Nhưng nội dung của đoạn văn này không phải thứ làm tôi kinh ngạc nhất. Nói thật, trong tích tắc nhìn thấy cuốn sổ ghi chép kia, tôi cũng đã nghĩ đến việc có lẽ mình sẽ đọc được nội dung như vậy rồi. Điều khiến hơi thở tôi bị bóp nghẹt trong nháy mắt chính là dòng chữ ký kia cơ.

"Trần Văn Cẩm!"

Trời ạ, tôi thật sự không thể ngờ thứ này lại là do cô ấy để lại. Nói vậy thì người gửi cuốn băng ghi hình cho tôi, lôi kéo tôi tới đây, cũng chính là cô ấy?

Điều này thật sự là một bước ngoặt bất ngờ, khiến người ta thật không sao hiểu nổi. Tuy rằng chú Ba chưa từng nhắc đến bất cứ tin tức gì về cô ấy, nhưng trong quan niệm của tôi, cô hẳn đã chết ở đâu đó rồi, sao lại có thể đột ngột xuất hiện trong thời điểm này được, hơn nữa còn dẫn tôi đến tận đây?

Còn nữa, chỉ trong có một đoạn văn ngắn ngủn này lại chứa đựng quá nhiều thông tin. Cái gì mà ba người? Là ba người nào? "Nó" là thứ gì? "Chúng tôi" là chỉ ai, lẽ nào lại là nhóm người ở Tây Sa? "Nghiên cu" gì? "Bí mt" gì?

Vô số suy nghĩ chợt nảy lên trong đầu tôi, nhưng tôi không kịp suy xét một ý nào. Tôi lấy lại bình tĩnh rồi lập tức lật cuốn sổ tay đọc tiếp phần sau.

Cuốn sổ tay này rất dày, có chừng hai sáu, hai bảy trang chi chít chữ, toàn là những hàng chữ lít nhít viết sít nhau, nét bút cực kỳ nắn nót và còn có rất nhiều hình vẽ. Hình như đó là một cuốn sổ tay công tác.

Tôi đặt bật lửa lên mép cái ngăn kéo vừa được lôi ra, rồi chính mình thì ngồi trên mặt đất, lập tức tập trung tinh thần đọc cuốn sổ.

Vừa mở ra trang đầu tiên nằm ngay phía sau trang bìa trong, tôi lập tức chấn động. Trên trang giấy tôi nhìn thấy một bức tranh rất kỳ quái, được vẽ vô cùng tỉ mỉ.

Bức vẽ này chỉ được tạo nên bởi bảy nét, sáu đường cong uốn lượn và một vòng tròn không ngay ngắn. Tôi chỉ cần nhớ lại một chút liền nhận ra ngay đây là thứ mà chú Ba đã miêu tả lại cho tôi: chính là cái đồ hình đã được giải mã từ sách lụa Chiến Quốc kia.

Tôi vô cùng kinh ngạc. Xem ra nhóm của Văn Cẩm cũng ghê gớm phết đây, có thể lấy được cả cái đồ hình cực kỳ khó xơi này cơ đấy. Nói vậy thì cô ấy cũng từng có hứng thú với cái đồ hình này.

Thế nhưng, khác với bản vẽ phác chú Ba cho tôi xem, bức họa lần này lại có đánh dấu ở trên. Tôi vừa xem liền toát mồ hôi lạnh đầy người. Chỉ thấy sáu đường cong nọ, bên trên mỗi cái lại có một chấm đen, có cảm giác dường như đây chính là điều chú Ba đã nói với tôi: tấm bản đồ sao kia xếp đúng vị trí với đường thẳng mà chọn ra sáu vì tinh tú. Song, ở trên bốn cái chấm đen đó, tôi lại nhìn thấy mấy con chữ nhỏ.

Từ trên xuống dưới là:

Núi Trường Bch - Vân Đnh Thiên Cung
Miếu Ht Dưa - Tht Tinh L Vương Cung
Ngn Pht Nm - Pht tháp Thiên Quan T
Sa Đu Tiêu - M thuyn chìm đáy bin

Tôi đọc xong liền hít một hơi lạnh, bụng dạ bấn loạn mất vài giây. Trong chốc lát, như người vừa ngộ đạo, tôi lập tức sáng tỏ cái thứ mình vừa nhìn thấy đây là cái gì.

Choáng, thật quá choáng! Lẽ nào những đường cong trên đồ hình này lại chính là bản vẽ hướng chạy của từng mạch núi nằm trong đại long mạch mà Uông Tàng Hải đã định ra?

Cẩn thận quan sát những đường cong, tôi liền phát hiện quả đúng là như vậy. Bởi vì không đặt trên bản đồ mà nhìn, cho nên tôi căn bản không sao liên tưởng sáu đường vẽ này đến điều đó, mà chỉ thấy chúng trông như những đường gân lá hay bản đồ phân bố sông ngòi. Nhưng bây giờ, vừa nhìn một cái, tôi đã lập tức nhận ra đây kỳ thật là một con "rồng". Sáu đường cong này chính là đầu rồng, đuôi rồng và tứ chi của rồng! Mỗi nét vẽ đều là một mạch núi, mà cái điểm bên trên đường cong, lại chính là bảo nhãn trên mạch núi.

Đây vốn không phải bản đồ sao gì đó như lời Cầu Đức Khảo nói mà!

Trong chốc lát toàn thân tôi lạnh toát, ý thức được điều gì đã xảy ra. Cái đuệch, còn không phải chính Cầu Đức Khảo cố ý đánh lạc hướng? Còn không phải cái lão yêu tinh này lừa chú Ba sao?!

Lại nhìn đến hai đường cong không có chữ. Tôi lập tức phát hiện bên trên chúng cũng có chấm đen, có điều bên cạnh ghi toàn dấu chấm hỏi. Dĩ nhiên mấy cái này cũng có thể là những long mạch trong Đại phong thủy, có điều vị trí của long nhãn trên long mạch thì không biết rõ.

Cú đánh liên hoàn từ trên trời giáng xuống này khiến tôi lúng túng không biết phải làm sao. Tôi thật sự không ngờ mở cuốn sổ tay này ra một cái liền ăn ngay mấy cú knock out như thế. Tôi lập tức khép quyển sổ lại, hít một hơi thật sâu, nhưng mà tay tôi vẫn phát run lên. Tôi nhớ tới lời nói trên trang bìa kia: "ni dung bên trong có liên quan đến mt vài bí mt khng l". Tôi tự nhủ: cô không nên cứ thế kích thích người ta ngay tại trang đầu tiên như vậy chứ!

Thế nhưng, sự kinh hãi đó rất nhanh đã bị cảm giác mừng như điên thay thế. Tôi nghiến răng vỗ vỗ ngực, xóa tan cảm giác nghẹt thở đó đi, lại mở cuốn sổ tay ra lần nữa.

Quan sát kỹ bức vẽ, lúc bấy giờ, tôi thấy được một điểm còn then chốt hơn tất cả.

Chỉ thấy ngoài sáu đường cong ra, có một khoảng giấy trống ở giữa do sáu nét vẽ uốn lượn quây tròn xung quanh, bên trong vòng tròn đó cũng có một dấu chấm đen. Chấm đen này không nằm trên đường cong nào cả, đứng độc lập lẻ loi ở vị trí có lẽ là trung tâm của toàn bộ hình vẽ.

Mà bên cạnh chấm đen này cũng có một hàng chữ nhỏ: Sài Đt Mc - Tháp Mc Đà

Thứ này thì tôi xem không hiểu, nhưng bên dưới dòng chữ nhỏ này bị gạch một đường rất sâu, còn có hai ba dấu chấm hỏi. Rõ ràng là trên tấm bản đồ này thì điểm đó mới là quan trọng nhất. Hơn nữa, trong lúc vẽ, Văn Cẩm có nghi vấn gì đó, cho nên mới vừa nghĩ vừa điền mấy dấu chấm hỏi kia.

Dựa theo kinh nghiệm từ những chỗ bên cạnh thì dấu chấm này có lẽ cũng biểu thị cho một địa điểm. Sài Đạt Mộc? Tháp Mộc Đà? Lẽ nào đó cũng là một ngôi mộ cổ sao? Tôi tự hỏi vì sao điểm này lại nằm ngoài những đường cong kia chứ?

Lập tức, tôi bỗng ý thức được rằng những gì mà Văn Cẩm biết còn nhiều hơn chúng tôi rất nhiều. Xem ra cuốn sổ tay này có thể giải đáp cho tôi khá là nhiều nghi vấn đây. Nghĩ đoạn, tôi lập tức lại lật sổ tay xem nội dung phần tiếp theo.

Nội dung sau đó đều là những đoạn chữ viết xen lẫn với nhiều hình vẽ. Chữ viết bên trên cũng cực kỳ nắn nót, ghi chép rất có trật tự, thế nhưng cỡ chữ nhỏ quá, dưới ánh sáng có phần yếu ớt của chiếc bật lửa, muốn đọc phải cực kỳ cố sức.

Tôi lấy lại bình tĩnh, tập trung tinh thần chăm chú đọc, vừa đọc vừa thấy cảm thấy mối ngờ vực ngày một dâng lên, đồng thời cũng cảm thấy thất vọng ngày một nhiều. Đợi đến khi xem xong, những nghi hoặc và thất vọng của tôi đã lên đến đỉnh điểm. Tôi đờ ra tại chỗ, cảm giác trong lòng thật quá khó hình dung.

Nội dung trong toàn bộ cuốn sổ tay đại khái có thể chia làm ba phần, gồm hơn mười nghìn chữ, đều là biên bản công tác dưới dạng nhật ký, ghi chép cực kỳ rườm rà, nhưng dựa theo nội dung trong đó mà phân ra thì đại khái có thể chia làm ba phần.

Phần thứ nhất là ghi chép từ ngày mùng 2 tháng Tư năm 1990 đến ngày 6 tháng Ba năm 1991. Vì không thể chép lại cả cuốn sổ tay ở đây nên tôi chỉ có thể tóm tắt và cũng gạn lọc ra những chương mục quan trọng nhất để cho rõ ràng hơn.

Nội dung của phần thứ nhất như sau:

Ngày 2 tháng Tư năm 1990

Chúng tôi đem phn ln nhng đ s trong huyt m dưới đáy bin ra tiến hành đánh s và phân loi mt lượt, sao chép li tt c đ s đó, đng thi so sánh vi bích ha, hy vng có th tìm hiu v cuc đi và s nghip ca Uông Tàng Hi. Thông qua so sánh như vy, chúng tôi qu thc đã phát hin được mt vài qui lut: được ghi li trên bích ha là nhng chuyn trong cuc sng ca ông ta, còn ni dung v trên đ s là quá trình xây dng công trình ca ông ta. Điu này có th chng minh t các nhóm ni dung mà chúng tôi đã phân loi. Ví d như: tiến vào nước Đông H - xây dng Vân Đnh Thiên Cung, được Chu Nguyên Chương phong thưởng - thiết kế hoàng cung thi Minh, đu đã tìm thy hình v th hin. Hơn na, da theo th t trong m tht, có th phân chia th t trước sau ca nhng khong thi gian này rt d dàng, hơn na tng cái đu phù hp.

Da theo phương thc suy đoán như vy, nhng bích ha này đu ghi chép li công lao hin hách ca bc thy phong thy Uông Tàng Hi. Ni dung được ghi chép li đu tương ng vi nhng tác phm ca ông ta. Còn nhng vic mà đi vi người khác là quan trng, ví như cưới v, săn bn, thì không thy ghi li bt c điu gì. Tôi gi cái này là "Thuyết tương đi h Uông".

----------

Ngày 6 tháng Tư năm 1990

Hôm nay "Thuyết tương đi h Uông" vp phi mt vn đ hóc búa. Trong tm bích ha cui cùng ca Uông Tàng Hi, chúng tôi phát hin mt đon ni dung thế này:

(Bên dưới là một bức phác thảo, đoán là vẽ tấm bích họa. Tôi bắt gặp hình vẽ trong này mới nhớ tới ban nãy lục bàn cũng trông thấy mấy thứ vẽ vời như trẻ con kia, hóa ra đều là hình bọn họ sao lại bích họa.)

Nội dung bức phác thảo rất khó miêu tả bởi vì trình vẽ quá lởm. Tôi chỉ có thể đại khái nhìn ra nó na ná cảnh tượng một vị quan to quyền quý nào đó tiễn biệt một người khác. Bối cảnh là cửa một cung điện rất lớn, ở bốn phía có các loại động vật như "lạc đà lừa ngựa" xếp thành hàng ngang ngay ngắn chỉnh tề, đương nhiên là bị vẽ cho thành chó với chuột hết một loạt. Tôi hiểu rõ tranh sơn thủy và tranh thú vật thời cổ đại, về mảng kiến thức này tôi đã được đào tạo rất kỹ càng và chặt chẽ, cho nên từ hình dạng và bút pháp tôi có thể đoán ra những động vật hình thù dị hợm này thật ra hẳn phải là ngựa hoặc lạc đà. Đằng sau cửa cung, người hầu kẻ hạ đứng hàng đàn, xếp thành đội hình long trọng. Có thể thấy, trong bức họa là một cảnh tượng khá hoành tráng.

Phía sau còn có hai ba trang toàn hình vẽ. Tôi không có hứng thú xem nên bỏ qua toàn bộ, đọc luôn nội dung phần sau.

Nhng gì ghi li trên tm bích ha này hn phi là s vic xy ra sau khi Uông Tàng Hi sáu mươi tám tui. Lúc đó ông ta đã hoàn thành công trình cui cùng ca mình, mà ni dung trên tm bích ha này đi khái nói rng ông đã nhn lnh ca hoàng đế, xut phát đến mt nơi, mt kiu hot đng tương t như đi s sang nước ngoài vy. Cu trúc ca tm bích ha này rõ ràng là mô phng theo bích ha thi Đường, v cnh Đường Huyn Trang đi Tây Vc, vô cùng kỳ l. Nhưng mà chúng tôi đã lt xem tt c đ s đây ra, t đu đến cui vn không phát hin được bt c hình v nào có kh năng là tương ng vi nó.

Có người nói có th đây là s kin cui cùng trong cuc đi ông ta cho nên không có bt c mt tác phm tương ng nào. Nhưng cũng có người li khăng khăng cho rng người như Uông Tàng Hi làm gì có ngoi l kiu này. Không có hình v trên s tương ng thì kh năng là có n ý hoc nguyên nhân đc bit nào đó. Hoc có th, tác phm đó ca ông ta đã được khc vào mt ch nào khác chng hn.

Qu tht sau này tiếp tc nghiên cu thì phát hin vài năm cui cùng ca Uông Tàng Hi kia cc kỳ thn bí, hoàn toàn không được viết li trên bt c tư liu lch s nào. Trong c cuc đi ông ta, có th nói, quãng thi gian ngn cui cùng này là mt khong trng.

Trong vài năm đó, rt cuc ông ta đã đâu, làm gì? Đây là mt câu hi hóc búa.

----------

Ngày 6 tháng Mười Hai năm 1990

Sut my tháng này, chúng tôi vn luôn điu tra hành tung ca Uông Tàng Hi trong my năm cui đi. Cui cùng cũng đã có manh mi. Chúng tôi phát hin ra rng, sau công trình cui cùng, có mt ln Uông Tàng Hi đã tháp tùng hoàng đế đi bái tế núi Trường Bch Sơn, t đó v sau không có bt kỳ ghi chép bng văn t nào na.

Núi Trường Bch, l nào ông ta đã đi vào trong núi sao? Chúng tôi cc kỳ hoài nghi.

---------

Ngày 7 tháng Mười Hai năm 1990

Đến đây thì không tra cu thêm được na. Chúng tôi thay đi phương hướng, bt đu bt tay vào tìm hiu t phía v hoàng đế kia. Trong Minh Chí có ghi chép k càng vic đi v ca các s đoàn và các dp đi đin. Chúng tôi mun t đó tìm ra ln đi đin được miêu t trên bích ha ca Uông Tàng Hi, hoc là ghi chép v chuyn ông ta đi s nước ngoài.
(* Minh Chí là tài liu lch s Minh triu lit kê tng s kin theo li chép s chính thng, đi đin là các dp l trng đi có s tham gia ca vua chúa và hoàng tc )

Kết qu li khiến chúng tôi kinh ngc vô cùng. Chúng tôi phát hin ra rng, trước khi hoàng đế chết hai năm, tng cng có by ln đi đin, trong đó sáu ln đu rt bình thường, nhưng li có mt ln rt kỳ quái, ghi chép hết sc đơn gin và không có bt c chú gii nào.

"Năm Hng Vũ th hai mươi chín, xưởng v bn mươi sáu người, binh sĩ mười hai người, la nga mt trăm hai mươi sáu con, trân châu mười đu, hoàng kim ba mươi cân, đi s Tháp Mc Đà. "

Đi đin và đi s, đây là hai s kin duy nht được ghi li đy đ. Nhưng bn ghi chép này li không đ rõ viên quan đi s lúc by gi. Mà điu khiến người ta thy kỳ quái nht là: Tháp Mc Đà là nơi nào?

Là mt nước sao? Trong chính s không có bt c ghi chép nào c. Có điu cũng rt có kh năng, vì vào khong thi Minh, hai khu vc Đông Nam Á và Tây Vc có vô s nhng nước nh. Đây có l là mt trong s nhng tiu quc đó. Thế nhưng Uông Tàng Hi li làm đc s đến mt tiu quc ư? Điu này có hơi kỳ quái. Vi tui tác ca ông ta thì đâu có thích hp ln li đường trường.

---------

Ngày 11 tháng Hai năm 1991

Tiếp tc tiến hành điu tra, trong lúc đó chúng tôi đã tiến hành tho lun hai ln.

(Ở giữa là mười trang viết lan man, toàn thảo luận và suy đoán, nhưng sau đó đều được chứng minh là sai, cho nên đã bị gạch bỏ.)

Bi vì s liu triu Minh đã tri qua mt ln đi nn vào thi nhà Thanh(triu đi sau lên nm quyn cho tiêu hy các loi văn bn lch s ca triu đi trước, chuyn thường ngày huyn há ( ̄ヮ ̄) ), cho nên lúc này điu tra rt khó khăn, rt lâu mà vn không có kết qu, v sau li phi chuyn hướng điu tra mi gii quyết được mt vn đ. Chúng tôi so sánh nhng đ vt mang theo ti "Tháp Mc Đà", lin phát hin chng loi l vt cho thy đây là mt quc gia Tây Vc, hơn na s lượng và hình thc tng phm xem ra khá thp, thế nhưng la nga li rt nhiu. Đây thot nhìn thì ging như mt thương đi ch không phi là đoàn đc s.

---------

Ngày 6 tháng Ba năm 1991

Hoàn toàn không có manh mi, đim đt phá cũng không tìm thy na. Nghiên cu trì tr không có tiến b, tâm trng mi người đu không tt.

Đây là đoạn thứ nhất, rõ ràng trước đoạn này hẳn còn phải có nội dung, nhưng đằng trước lại không phát hiện dấu vết của những trang bị xé. Xem ra đây không phải là một cuốn sổ tay đơn độc. Đây là một cuốn trong một bộ sổ tay.

Đoạn thứ nhất miêu tả, trong lúc bọn họ nghiên cứu về Uông Tàng Hải thì phát hiện ra "Tháp Mộc Đà", sau đó lại nghiên cứu "Tháp Mộc Đà", cuối cùng nghiên cứu bị đình trệ. Quá trình là như vậy. Từ một đoạn nội dung này có thể thấy được rất nhiều điều. Bọn họ đang nghiên cứu bích họa và đồ sứ trong huyệt mộ dưới đáy biển. Hơn nữa, xem ra nghiên cứu còn cực kỳ chính thống và quy củ, là qui trình khảo cổ kinh điển. (Quá trình tra cứu tư liệu kiểu này có vẻ cực kỳ tẻ nhạt, nhưng lại là phương thức nghiên cứu chủ yếu hằng này của người làm công tác khảo cổ. Khảo cổ chính là khai quật - phục chế - tra cứu). Nhưng vào năm chú Ba ra đi thì căn bản không có điều kiện như thế này. Mộ dưới biển của Uông Tàng Hải lớn là thế, chỉ lèo tèo có mỗi vài người như vậy thì biết phải làm bao lâu mới có thể sao chép lại toàn bộ đồ vật trong huyệt mộ đây? Như vậy, bọn họ đã bắt đầu làm công việc này từ lúc nào?

Đây là một manh mối rất lớn. Có điều tôi không có sức nghiền ngẫm, nên lại đọc tiếp. Lúc đó tôi cho rằng đằng sau sẽ là đoạn kế tiếp của quá trình đó, thế nhưng sau đoạn ngày 6 tháng Ba năm 1991 này, lại xuất hiện một hiện tượng khiến tôi nghi hoặc.

Từ sau một đoạn này có khoảng sáu trang nội dung, đều kể về chuyện thu thập tư liệu, phần này sẽ lược bỏ. Tiếp tục giở về phía sau, lại là một đoạn nhật ký công tác, thời gian lại nhảy tới ngày 19 tháng Một năm 1993.

Sau này nhìn lại nội dung ghi chép trong đó, bạn sẽ phát hiện thấy đã có sự khác biệt tương đối lớn so với phần trước. Nội dung đoạn này là vào ngày mười chín tháng Một năm 1993, thẳng đến tận ngày 8 tháng Hai năm 1995, khoảng cách thời gian từng đoạn khá lớn, thế nhưng những thứ được ghi chép lại không nhiều. Nội dung như sau:

Ngày 19 tháng Mt năm 1993

Qua ln tho lun trước, chuyn ca Uông Tàng Hi đã rõ ràng hn lên. Xem ra vic ông ta ti Tháp Mc Đà thc s có liên quan đến s kin hoàng đế tế bái núi Trường Bch. Có l ông ta tr v Vân Đnh Thiên cung, sau đó mi lên đường đến Tháp Mc Đà. Tháp Mc Đà này tt nhiên có liên quan đến tình cnh trong núi Trường Bch.

---------

Ngày 18 tháng Tư năm 1993

Da vào bích ha, chúng tôi đã sp xếp li ba tuyến đường dn đến Vân Đnh Thiên Cung. Chúng tôi quyết đnh trước hết s đi núi Trường Bch, tìm hiu đến tn cùng.

---------

Ngày 30 tháng Năm năm 1993

Tiến vào phm vi núi Trường Bch, thi tiết rt t.

(Sau đó đại khái có hơn mười trang ghi chép về việc di chuyển trong tuyết như kiểu tiểu thuyết thám hiểm, cũng giống như khi chúng tôi đến Vân Đỉnh Thiên Cung, cho đến tận đoạn tiến vào trong.)

Ngày 15 tháng Sáu năm 1993

Đã mt liên lc vi bn h. Hai người chúng tôi tiếp tc tiến lên.

---------

Ngày 17 tháng Sáu năm 1993

Chúng tôi chm đích Vân Đnh Thiên Cung. Tình hình cc kỳ không n, nhng người khác có kh năng lành ít d nhiu. Chúng tôi cũng không có thi gian do d. Chúng tôi quyết đnh tiến vào ca thanh đng, xem th bên trong rt cuc là ch như thế nào.

---------

Ngày 18 tháng Sáu năm 1993, có v như, tôi đã nhìn thy Chung Cc!
(Chung cc nghĩa là Tn Cùng)

(Từ đoạn này về sau ở giữa bị ngắt quãng, không có bất cứ nội dung nào. Tiếp theo là đoạn cuối cùng của nhật ký. Hiển nhiên, suốt thời gian một năm rưỡi cô ấy không hề ghi chép thứ gì.)

Điều cuối cùng được viết lại là:

Ngày 8 tháng Hai năm 1995

Chúng tôi bt đu lên kế hoch tìm kiếm Tháp Mc Đà. Tt thy nhng th này rt cuc là chuyn gì, tôi nht đnh phi làm cho rõ ràng.

Đây là phần thứ hai. Đến đây có tổng cộng khoảng ba mươi trang nội dung. Điều dễ thấy nhất, đó là giữa phần thứ nhất và phần thứ hai có những mấy năm nội dung để trống. Tới phần thứ hai thì nhảy luôn vào hành trình của họ đến Vân Đỉnh Thiên Cung. Đọc đến đây, trong lòng tôi đã làm rõ được một nghi vấn: xem ra tại Vân Đỉnh Thiên Cung, những người chết trong đống vàng có lẽ chính là nhóm người bọn họ. Hơn nữa xem xét đồ vật mà bọn họ mang theo và những gì Văn Cẩm tiết lộ với chúng ta ở đây, thì có lẽ đó cũng chính là nhóm người trước kia ở Tây Sa rồi.

Nói vậy thì dường như bọn họ không hề gặp phải tình cảnh đặc biệt quẫn bách gì khác, hơn nữa hình như sinh hoạt còn khá thoải mái nữa? Có điều mấy chuyện này chỉ là thứ yếu. Điều làm cho tôi khiếp sợ là, hiển nhiên Văn Cẩm cũng đã phát hiện ra cánh cửa thanh đồng kia, hơn nữa cô ấy còn đi vào đó rồi.

"Tôi đã nhìn thy Chung Cc!" Tôi đọc đến đoạn này liền toát mồ hôi lạnh đầm đìa, lòng tự nhủ đây là ý gì thế này, cái thứ Chung Cực này biểu thị cho cái gì?

Xem xét thời gian ghi chép thì thấy sau khi cô ấy vào đó, dường như trong suốt một năm rưỡi không hề viết bất cứ cái gì vào nhật ký. Chuyện đó không phù hợp với tính cách của cô ấy. Tôi cảm thấy cực kỳ có khả năng là cô ấy đã nhìn thấy cái gì đó đằng sau cánh cửa thanh đồng, cho nên mới quá mức khiếp sợ, không còn đầu óc đâu mà nghĩ đến sổ tay gì hết.

Nhìn chung, cảm giác lớn nhất mà phần thứ hai để lại cho tôi, đó là Tháp Mộc Đà kia có lẽ có liên quan rất chặt chẽ với cánh cửa thanh đồng. Sau khi Văn Cẩm bước vào cửa thanh đồng thì mới nhen nhóm ý định đi tìm "Tháp Mộc Đà" này.

Tiếp về sau là đoạn thứ ba. Phần này đặc biệt dài, nhưng khoảng cách thời gian rất ngắn, từ ngày 8 tháng Hai năm 1995 đến ngày 8 tháng Sáu năm 1995, trong đó xem ra chỉ có một đoạn là đáng nói.

Ngày tám tháng Hai năm 1995

Căn c vào tm bn đ long mch kia, chúng tôi đã có th xác đnh được v trí ca Tháp Mc Đà. Chúng tôi chun b tiến hành mt ln kho sát, hy vng trong ln kho sát này s có th phát hin đáp án ca mt lot câu đ kia. Phi nói tht là tôi thc s không ng, đng sau chuyn này li có nhiu s tình đến như vy. Nếu như th tôi chng kiến sau cánh ca thanh đng là thc, thì toàn b chuyn này qu tht quá đáng s.

Nội dung sau đó kể về hành trình bọn họ đi đến nơi gọi là "Tháp Mộc Đà" kia. Xem miêu tả trong đó thì "Tháp Mộc Đà" hẳn là một ốc đảo trong sa mạc. Văn Cẩm đi theo một đoàn lạc đà, vào năm 1993 thì xuất phát từ Đôn Hoàng, tiến vào Sài Đạt Mộc, bắt đầu chặng đường này.

Bọn họ được một người phụ nữ gọi là Định Chủ Trác Mã dẫn đường, bắt đầu tiến vào sa mạc. Sau đó, ở một núi đá, bọn họ chia tay với người đó, đi vào chỗ gọi là "Tháp Mộc Đà". Bên trong ốc đảo kia dường như cực kỳ hung hiểm, trên đường đi chết không ít người, còn thấy trên bản đồ hành trình ở sổ tay có rất nhiều ký hiệu nguy hiểm. Cuối cùng, bọn họ tới được Tháp Mộc Đà, có điều cô ấy lại phát sinh mâu thuẫn với một người khác, rốt cuộc chưa đi đến đích đã trở về.

Tôi đọc lướt rất nhanh nội dung này một lần, cũng không xem kỹ. Từ sau những nội dung ấy là khoảng trắng, không còn gì khác. Phần nội dung này có khoảng ba mươi trang, ghi chép cực kỳ kỹ càng, có một lượng lớn bản đồ hành trình cùng với những mô tả về tổn hại của thiết bị và thời tiết các loại.

Trong toàn bộ cuốn sổ tay căn bản không hề viết về việc bọn họ làm thế nào có được các thông tin, hoặc là điều tra như thế nào, cũng không nhắc gì đến việc bọn họ mất tích ở Tây Sa, hay chuyện ở trại an dưỡng này. Tất cả thông tin bên trong đều có liên quan đến "Tháp Mộc Đà" kia, chiếm hết gần một nửa độ dài, toàn là phân tích về những thứ mà Thiết Diện Sinh Uông Tàng Hải để lại, hơn nữa từ đó phát hiện ra phương hướng liên quan đến "Tháp Mộc Đà". Mà trên hết, điều khiến tôi rất để ý chính là ba đoạn nội dung này rõ ràng đều bị ngắt quãng ở giữa, có cảm giác dường như cuốn sổ tay này từng bị người ta xé ra đóng lại thành quyển mới, hoặc chỉ là bản sao chép.

Tôi dùng sức kéo căng khe hở giữa các trang, phát hiện không hề có bất cứ dấu vết đóng lại hay vết giấy rách nào. Đây là một cuốn sổ tay nguyên vẹn. Như vậy tức là cuốn sổ tay này có thể là một bản Văn Cẩm chép lại. Dường như cô ấy đã chọn một vài nội dung về Tháp Mộc Đà trong sổ gốc, sao chép rồi tập hợp chúng vào một cuốn sổ tay khác.

Tại sao cô ấy phải làm vậy cơ chứ? Đây cũng là một chuyện khó lòng tưởng tượng nổi. Vì sao nhóm người này lại luôn luôn thần thần bí bí như vậy? Không lẽ trong những nội dung khác của sổ tay có những điều cô ấy không muốn để cho người khác biết sao?

Hơn nữa, xem cuốn sổ tay này thì thấy có một cảm giác rất rõ ràng, dường như chính nó muốn tôi biết rằng "Tháp Mộc Đà" này là địa điểm cực kỳ quan trọng, tựa như muốn tôi tìm đến nơi đó.

Nghi vấn trong lòng nhiều không kể xiết, trong một lúc cũng không lần ra được manh mối gì, tôi day day thái dương, lật cuốn sổ tay trở lại, chuẩn bị đọc lại tỉ mỉ từ đầu để còn cẩn thận suy nghĩ xem có rút ra được chút đầu mối gì không. Thế nhưng đúng lúc này cái bật lửa trước mắt lại tối sầm đi. Ngọn lửa đã dần tàn lụi, ánh sáng ảm đạm.

Tôi nhớ ra cái bật lửa này đã dùng một lúc khá lâu rồi, có lẽ là sắp tắt, vì vậy tôi định lôi đống báo chí và cả ngăn kéo ra nhóm lửa, xếp thành một đống lửa luôn, như vậy sẽ không đến mức lát nữa mình phải sờ soạng trong bóng tối khi mà bật lửa không còn dùng được. Vì vậy tôi cầm cái bật lửa, đứng lên, giãn gân giãn cốt một lát.

Đúng lúc đó, tôi chợt cảm thấy có gì đó rất không hợp lý, trong này hình như có chỗ nào đó không giống như hồi nãy. Tôi dứt khoát giơ cao bật lửa, định nhìn một chút xem có phải ảo giác hay không. Vụ này không nhìn còn khá, chứ nhìn xong tôi bị dọa thiếu điều chết ngỏm luôn. Chỉ thấy ở cái bàn đối diện không biết từ lúc nào đã xuất hiện một "người". Người này ngồi trên chiếc ghế tôi vừa ngồi ban nãy, nhìn vào trong cái gương kia, đang chải đầu.

Chương 42. Bóng ti

"Người" này thân hình thật quái dị. Tuy rằng ánh sáng bật lửa lờ mờ chỉ có thể chiếu ra được một cái bóng xam xám hình thù không toàn vẹn, nhưng tôi vẫn có thể thấy hình dạng cái cổ của nó hơi quai quái. Cái cảm giác này, nói quá lên một chút, đó là cảm thấy dường như nó không cần phải đứng lên mà vẫn có thể dí sát mặt vào tôi được ấy.

Nó ngồi trên chiếc ghế dựa mà tôi ngồi ban nãy, hai cánh tay dài khẳng khiu trượt trượt bên đầu, động tác quỷ quái lạ thường. Tôi sững sờ một chốc mới nhận ra là nó đang chải tóc. Bấy giờ tôi liền lạnh toát cả người, toàn thân nổi da gà.

Trong một gian hầm ngầm hoang phế hơn mười năm thế này, đột nhiên lại nhìn thấy một người chải đầu trong bóng tối. Cái động tác đó, hơn nữa lại trong cái hoàn cảnh này, nếu là người bình thường thì e là sẽ chết cứng tại chỗ vì sợ luôn.

Tôi vừa toát mồ hôi lạnh vừa cảm thấy quái lạ. Đây là ai vậy? Đã xuất hiện từ lúc nào? Từ khi phát hiện ra cuốn sổ tay đến lúc tôi ngồi xuống đọc, tối đa cũng chỉ có hai mươi phút đồng hồ, đồ chó đẻ nhà nó đã ngồi lù lù đối diện với tôi từ bao giờ? Tại sao tôi lại hoàn toàn không phát hiện ra gì cả... Hơn nữa, nơi đây là trong hầm ngầm bí mật của một tòa nhà bị bỏ hoang, tại sao lại có người khác ở đây được?

Lại còn cái động tác kỳ quái này nữa. Nó ngồi trên ghế dựa, nhìn vào tấm gương của Hoắc Linh, lại còn chải đầu, khiến tôi không thể không nghĩ: lẽ nào Hoắc Linh không đi cùng với những người khác... "Người" này là Hoắc Linh ư?

Mồ hôi lạnh của tôi tuôn ra như suối. Cũng may mà tôi thần kinh thép hơn xưa nhiều rồi. Mặc dù không thể nào hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra thế kia, nhưng cơ thể tôi vẫn vô thức phản ứng lại. Tôi theo phản xạ có điều kiện lùi về phía sau vài bước, hai mắt nhìn thẳng vào đối phương, thần kinh căng lên cảnh giác.

Nếu đây mà là trong phim truyền hình thì hẳn mọi việc sẽ như này: tôi dáng vẻ đầy kinh hoàng, kẻ nấp trong bóng tối kia sẽ cười ba tiếng ha ha ha, sau đó đạo diễn sẽ cho quay một cảnh đặc tả, hoặc là quay cảnh kẻ đó rút một khẩu súng ngắn ra, nói: "Bất ngờ lắm phải không, ngài Bond Tà." Thế nhưng đây không phải là phim ảnh. Từ lúc tôi lùi ra sau, người nọ vẫn không nhúc nhích, vẫn máy móc rập khuôn động tác chải đầu. Cùng với từng bước lùi của tôi, ánh sáng bật lửa chập chờn càng yếu ớt dần, khoảng cách cũng càng ngày càng xa. Người nọ chìm vào trong bóng tối, sắp không nhìn thấy nữa rồi.

Lùi thẳng chừng năm sáu bước, tôi bắt đầu cảm thấy có chút an toàn, liền dừng lại lấy hết cam đảm hỏi một câu: "Ai đó?"

Sau khi xuống căn phòng dưới đất tôi gần như không hề lên tiếng câu nào, lúc này bật thốt ra, âm thanh khàn khàn gần như không giống với giọng tôi nữa, tự nghe mà còn tự giật mình đánh thót một cái. Có điều, trong căn phòng dưới tầng ngầm yên tĩnh đến nỗi cây kim rơi xuống đất cũng còn nghe thấy được này, giọng nói khàn khàn của tôi vang lên vẫn cực kỳ rõ ràng.

Nhưng sau khi tôi hỏi, đối phương vẫn không hề có phản ứng gì. Từ chỗ bàn làm việc đằng kia không có bất cứ âm thanh nào vang lên, cứ như là tôi đang nói chuyện với không khí.

Đồ chó đẻ, dọa rồ tao hả? Tôi chửi thầm, có hơi sợ thật rồi. Ngẫm lại vừa nãy nhìn thấy hình dáng quái gở của người nọ, tôi đã tự nhủ rằng có khi nào cái thứ đó chẳng phải con người hay không?

Không thể nào, không thể nào đâu, tôi tự phản đối chính mình. Nếu ở trong cổ mộ thì còn có thể, chứ đây là tòa nhà hiện đại cơ mà, làm sao mà có thứ đó thò ra được, ở đây làm gì có quan tài... Đợi đã đợi đã, sai rồi! Cái đuệch, ở đây có quan tài mà.

Đầu tôi nổ đánh đùng một tiếng, thầm nhủ không lẽ đó chính là bánh tông trong cái quan tài hồi nãy?

Tôi vội vã lắc đầu, ráng sức hổn hển hít thở mấy hơi để làm mình bình tĩnh lại.

Việc này không có khả năng đâu. Có lý nào mà vừa đụng phải quan tài là đã có bánh tông bò ngay ra chứ. Nếu thế thật thì chẳng phải những người làm ở nhà tang lễ đều phải thi đỗ chứng chỉ Mao Sơn thuật sĩ hết cả hay sao?

Đúng thời khắc này, trong đầu tôi chợt nảy ra một ý nghĩ: liệu có phải chính người này đã gửi băng ghi hình cho tôi? Rồi chờ tôi ở chỗ này?

Theo như cuốn sổ tay tôi vừa xem hồi nãy, thì người đã dàn xếp vụ gửi băng hình chính là Văn Cẩm. Nhưng trên thực tế thì không thể xác định chắc chắn cô ấy chính là người gửi băng hình được, biết đâu cô ta đã cử người khác làm việc đó thì sao.

Đến đây thì tôi cảm thấy giả thiết này rất có khả năng đấy. Kiểu phòng ngầm dưới đất này người bình thường không thể biết được, nhất định phải hiểu rõ sự tình thì mới có thể vào đây. Biết đâu người gửi băng vẫn ở gần đây chờ tôi, thấy tôi trèo vào nhà thì cũng vào cùng. Nghĩ vậy, tôi có phần vững dạ hơn đôi chút. Tôi cố lấy can đảm, bụng bảo dạ nếu là người sống thì khỏi phải sợ rồi. Vì thế tôi nhíu mày, đưa cái bật lửa ra đằng trước nhìn xem đó rốt cuộc là ai.

Tôi cẩn thận từng li từng tý, dò dẫm đi lên hai ba bước. Tôi có thể loáng thoáng thấy cái bàn làm việc kia rồi. Thế nhưng vừa nhìn một cái tôi liền sợ đến nhảy dựng cả lên. "Người" ngồi ở chỗ kia đã không thấy đâu nữa.

Tôi nheo mắt lại nhìn cho cẩn thận, xác định đúng là không thấy nữa. Trên ghế không hề có người. Trong lòng tôi nổi lên nghi hoặc. Tôi tự nhủ không lẽ hồi nãy mình nhìn nhầm rồi sao? Ảo giác chăng?

Không thể nào. Cái thứ nhìn mà toát cả mồ hôi lạnh ra ấy, tôi tuyệt đối không có khả năng nhìn nhầm. Tôi lập tức căng thẳng hẳn lên, vội vàng giơ cao chiếc bật lửa soi ra khắp bốn phía.

Thế nhưng lúc tôi giơ nó lên cao động tác lại quá mạnh. Ngọn lửa phừng lên một cái rồi tắt ngúm.

Bốn bề lập tức tối như hũ nút, giơ tay không nhìn thấy ngón. Trong này một chút ánh sáng cũng không có, hoàn toàn chìm trong bóng tối. Bụng dạ tôi liền quặn lên, không thèm để ý đến chuyện đầu bật lửa còn đang nóng bỏng muốn chết, vội vàng bật vài cái đánh lửa.

Nhưng mà cứ đánh hoài đánh mãi, thứ này nó vẫn không thèm hợp tác, có đánh thế nào cũng không cháy lên được mà chỉ thấy mấy tia lửa văng tóe ra, cực kỳ chói mắt trong cái hầm ngầm tối đen như mực này. Tôi nhận ra có lẽ nhiên liệu đã cạn rồi.

Tôi tự nhủ thôi chết mọe nó rồi. Nhìn xung quanh tối đến mức giơ tay không thấy ngón, một dự cảm cực kỳ xấu liền dâng lên. Tôi nhét cuốn sổ tay vào túi, chuẩn bị lùi ra sau vài bước, lần mò đến cửa ra vào thì đột nhiên nghe thấy trên đỉnh đầu có một tiếng xì xào, cứ như có một người phụ nữ đang cười.

-------

Đuệch mợ Bond Tà, chịu hết nổi rồi =))))))))))))))))))))))))))

Chương 43. Biến c kinh hoàng


Bình thường tôi không hút thuốc lá, chỉ có những lúc vô cùng buồn bực mới rít vài ba hơi, cho nên cái bật lửa này từ khi mua đến giờ tôi chưa từng bơm thêm nhiên liệu lần nào. Lúc này nó lại đột nhiên tắt làm tôi sợ đến tái mét cả mặt. Ở cái nơi như thế này mà không có ánh sáng thì thật là quá khủng khiếp.

Đúng lúc đang nghĩ xem phải làm sao thì tôi chợt nghe tiếng lao xao ở trên đầu, cứ như tiếng phụ nữ đang cười.

Tôi thoắt cái lạnh hết cả gáy. Căn phòng ngầm này rất thấp, trần phòng tôi chỉ cần giơ tay rồi nhảy lên là chạm đến. Tuy không nhìn thấy được gì, tôi vẫn theo phản xạ có điều kiện mà ngẩng đầu nhìn lên trên.

Vừa ngẩng lên một cái, tôi vẫn chẳng nhìn thấy gì nhưng lại cảm thấy có gì đó mượt mượt lông lông rủ xuống mặt mình. Tôi tiện tay quờ một cái, rồi thì ruột gan cứng đờ ra luôn. Tôi phát hiện ra đó chính là một đám tóc, hơn nữa lại còn ẩm ướt dính nhớp.

Từ sau vụ ngôi mộ đáy biển, tôi cực kỳ bài xích tóc ướt. Giờ đây tôi cảm thấy phát ớn đến tận cổ, cứ như nuốt phải chuột không bằng. Tôi mau chóng hạ thấp người xuống, giơ tay áo lên lau hết thứ dính trên mặt đi, đồng thời thân thể cũng bước lùi sang bên cạnh, ngẩng đầu liều mạng nhìn trừng trừng cái trần nhà đen thùi lùi.

Tối quá. Tôi hoàn toàn không thể tưởng tượng nổi lại tối tăm đến thế. Nỗi sợ hãi lập tức trào dâng trong lòng tôi. Tôi tự hỏi có chuyện gì thế này, trên trần nhà lại có một phụ nữ sao? Lẽ nào là cái người ban nãy giờ đã treo trên trần rồi? Bố đệt, có thể thế được cơ à? Không lẽ nó là thằn lằn chắc?

Sự việc càng lúc càng bất thường. Tôi sờ sờ thứ dinh dính trong tay, ngửi thử một cái, liền thấy một thứ mùi kỳ quái. Trong chốc lát tôi không nhớ nổi đã từng ngửi được mùi này ở đâu, nhưng giống như phản xạ có điều kiện, trong lòng tôi nảy sinh một linh cảm chẳng lành.

Đúng lúc này, cái tiếng cười lao xao kia lại vang lên, nghe cứ thấy như là từ trên trần nhà vọng xuống chỗ tôi. Tôi lập tức lại lùi ra sau vài bước, "bịch" một cái đụng phải chiếc bàn làm việc. Trong căn phòng ngầm yên tĩnh, tiếng động ấy vang lên như sấm nổ, bản thân tôi nghe mà cũng phát khiếp đến nỗi đầm đìa mồ hôi lạnh.

Khi tôi đứng được cho vững thì đã không còn nghe thấy âm thanh kia nữa. Tôi càng lúc càng căng thẳng, mà không phải là kiểu căng thẳng bình thường. Chẳng biết vì sao mà toàn thân tôi bắt đầu run lẩy bẩy, dường như trong tiềm thức tôi đã dự cảm được chuyện gì đó cực kỳ đáng sợ sắp xảy ra. Tiếp đó, tôi bỗng cảm thấy sau gáy ngứa râm ran, cứ như có thứ gì thõng xuống ở phía sau đầu tôi vậy.

Tôi nắm lấy cái bật lửa, không nhịn nổi nữa, run như con cầy sấy mà quay đầu lại, dùng hết sức lực đánh viên đá lửa lên.

Roẹt một tiếng, tia lửa tóe ra, rồi trước mắt lại là một màn đen kịt. Nhưng cảnh tượng kia đã khắc rõ như in vào trong óc tôi.

Cấm Bà! Tôi lập tức biết ngay tại sao cơ thể mình lại có cái phản ứng này rồi. Chó má thật, trong này có một con Cấm Bà!

Đầu óc tôi bỗng trống rỗng, tỉnh táo cái mẹ gì đều bay biến sạch sẽ hết. Tôi thét lên một tiếng quái đản rồi bỏ chạy như điên, mặc kệ hết tất cả, lao thẳng vào trong bóng tối. Trong đầu tôi chỉ còn một ý nghĩ, chính là phải chạy ngay ra khỏi chốn này.

Chưa chạy được bao nhiêu bước, thật sự đấy, cả người tôi đã đâm sầm vào vách tường. Cú lao đó có lực va chạm như của kẻ đâm đầu vào tường tự sát. "Bịch" một tiếng, tôi ngã ngửa ra trên đất, lúc đứng lên thì chợt nghe trên đỉnh đầu có tiếng "leng keng leng keng" xộc thẳng đến chỗ tôi. Mặc kệ lỗ mũi mình ròng ròng máu, tôi bò dậy theo cảm giác tìm cái cổng tò vò ban nãy vừa đi vào, lần nữa lao vọt đến đó.

Lần này thì tôi đã khôn ra rồi. Tôi duỗi tay ra đằng trước, một mạch sờ soạng rồi xông ra ngoài, dựa vào trí nhớ mà vọt đến hành lang, sau đó lần theo tường phi tới lối ra, rồi lại xông vào trong bóng tối, sờ soạng loạn xạ muốn tìm đến đầu cầu thang.

Thế nhưng trong một nơi tối om mà muốn lần ra cái cổng tò vò kia thì thật quá khó khăn. Tôi sờ soạng cả buổi mà đến cái vách tường còn chẳng sờ thấy. Lần lần mò mò, tôi đột nhiên vấp phải cái gì đó, gần như ngã sấp xuống. Tôi quờ quạng ra đằng trước một lát, nhoài người lên, lập tức liền biết ngay là mình đã vấp phải cỗ quan tài bằng đá.

Tôi tỳ vào cỗ quan tài đá, muốn đứng dậy, nhưng trong lúc tay sờ loạn xạ trên nắp quan tài, tôi đột nhiên cảm thấy không ổn, quan tài đá này hình như đã có gì thay đổi rồi. Tôi sờ thử thêm một lát liền phát hiện: thì ra nắp bộ quan quách đá đã bị người ta dịch đi một khoảng nhỏ, tay tôi lại sờ đúng lỗ hổng trên đó.

Cỗ quan tài đá này sao lại bị mở ra được? Trong khoảnh khắc nghi vấn này đã nảy sinh trong đầu óc tôi. Thế nhưng lúc này đầu tôi đã rối thành một mớ bòng bong rồi, chỉ thấy choáng váng một trận, tôi cũng không rảnh mà lo đến vấn đề này nữa. Thoắt cái tôi đã đứng dậy, tiếp tục sờ soạng đi lên phía trước.

Đúng vào lúc đó, bỗng nhiên bên cạnh có thứ gì động đậy một cái. Thần kinh tôi căng thẳng đến cực hạn, gần như bị dọa cho chết khiếp rồi, vừa định giật mình né ra thì bỗng một bàn tay duỗi tới, lập tức miệng tôi bị người ta bịt chặt, cơ thể cũng bị người ta kẹp cứng không thể nhúc nhích.

Tôi ra sức giãy giụa vài cái. Thứ đang ghìm chặt tôi sức lực quá lớn, tôi không thể nhúc nhích nổi dù chỉ một ly. Cùng lúc đó, tôi chợt nghe bên tai có người khẽ quát: "Đừng cử động!"

Tôi vừa nghe liền kinh hãi, lập tức thôi không giãy giụa, trong lòng gần như phát nổ tanh bành.

Tuy chỉ vẻn vẹn có ba tiếng, nhưng nghe xong tôi vẫn nhận ra được ngay người nói là ai!

Đó ấy vậy mà lại là tiếng của Muộn Du Bình.

================

B Cm bà phi l mt ln, cơ th lin nh như in luôn -3-|||

Chương 44. Trùng phùng

Trong tích tắc tôi liền nhận ra ngay giọng nói kia. Tôi vốn nên phải có vô số những phản ứng, như nghi hoặc, giận dữ, kinh ngạc, khó tin, hoảng sợ, vân vân... Nhưng trên thực tế đầu óc tôi lại trắng xóa.

Ở nơi này, nghe được giọng hắn thật sự là điều tôi không thể ngờ tới. Trong suy nghĩ của tôi, vào lúc này, Muộn Du Bình có thể ở bất cứ nơi nào trên đời, thậm chí kể cả không còn trên thế giới này, nhưng hắn tuyệt đối không có lý do gì để xuất hiện ở đây hết.

Chính xác! Hắn tại sao lại ở chỗ này? Hắn làm gì ở đây?

Lẽ nào người gửi băng ghi hình lại thật sự là hắn? Hắn ẩn núp ở đây sao?

Hay là cũng giống như tôi, hắn cũng vì truy đuổi theo đầu mối nào đó mà tìm đến?

Sau khi đầu óc rỗng tuếch ra, vô số nghi vấn lại ập đến như thủy triều, trong chốc lát tôi không sao suy nghĩ gì được nữa. Đồng thời, trong đầu tôi lại hiện ra cảnh hắn đi vào trong cánh cửa thanh đồng. Một luồng cảm xúc tức thì trào dâng, tôi thật muốn lập tức níu chặt lấy hắn, bấu lấy cổ hắn hỏi cho rõ ràng: đồ của nợ kia rốt cuộc anh đang làm trò quỷ gì thế hả???

Thế nhưng sự thật lại là hắn đang bịt kín miệng tôi (âm mưu biến tôi thành cái bình kín ming như hn - )) ). Trong bóng tối, tôi một tiếng rên cũng không rên lên nổi, ngọ ngoậy cũng không nổi. Hơn nữa, tôi còn cảm thấy rất rõ ràng là hắn vẫn tiếp tục dùng sức, hoàn toàn không có ý định buông lỏng mà cứ muốn ghì siết tôi như vậy. Điều này khiến tôi rất không thoải mái. Tôi lại dùng sức quẫy người một cái, hắn bèn ép sát càng chặt hơn. Tôi suýt nữa thì không thở nổi.

Đúng lúc này tôi lại nghe thấy cánh cửa gỗ mới vừa được mình đóng lại kia phát ra một tiếng kéét~ cực kỳ chói tai, bị cái gì đó đẩy ra.

Thứ kia ra rồi. Tôi hít sâu một hơi, lập tức yên lặng, nén lại hơi thở, không vùng vẫy nữa, tập trung cảm nhận động tĩnh khác thường trong bóng tối.

Thoắt một cái, cả gian phòng yên tĩnh vô cùng. Không bị âm thanh của chính mình làm nhiễu nữa, tôi liền nghe thấy thật nhiều tiếng động. Đó là tiếng hít thở vô cùng nhỏ, gần sát ngay cạnh đầu tôi.

Đây là tiếng hít thở của Muộn Du Bình. Mẹ kiếp, hắn còn sống. Lúc đó chứng kiến hắn đi vào trong cửa thanh đồng, tôi còn tưởng hắn chết chắc rồi, đã tiến vào trong địa ngục mất rồi.

Muộn Du Bình có lẽ đã thấy tôi bình tĩnh lại rồi, bàn tay đang ghì chặt lấy tôi liền hơi hơi nới lỏng, nhưng vẫn không hề có ý định buông ra như cũ. Rất nhanh, khắp bốn phía liền trở nên yên tĩnh đến nỗi còn nghe thấy được cả từng nhịp đập của trái tim mình.

Cứ đứng im như tượng thạch cao vậy, chẳng biết cầm cự được bao lâu, tôi chợt nghe thấy những tiếng lép nhép cực kỳ quái gở vang lên từ phía cửa.

Lại một lát sau, không còn nghe thấy bất cứ tiếng động gì nữa, bàn tay bịt miệng tôi mới hoàn toàn nới lỏng. Bất thình lình, trước mắt tôi hoa lên một cái, là hỏa chiết tử(*) đã được thắp sáng.

(* Này không liên quan lm, nhưng hi nh mình coi chuyn Nguyn Tuân thy bên mình ngày xưa cũng có món đ ging ha chiết t, gi là 'hng', cũng là th cho dân trm đo đào tường khoét vách s dng. Khi thp cái này lên người ta không gi là thp sáng mà kêu 'bt hng', như mt dng tiếng lóng. )

Tôi phải mất thời gian khá lâu mới thích ứng được, nheo mắt lại nhìn xem, khuôn mặt quen thuộc kia cuối cùng cũng hiện ra rõ ràng trước mặt tôi.

Muộn Du Bình gần như không khác chút nào so với lúc hắn biến mất mấy tháng trước. Điểm khác biệt duy nhất là trên mặt hắn thế mà lại mọc chân râu. Tôi cảm thấy vô cùng bất ngờ, nhìn kỹ lại mới phát hiện đó không phải chân râu, mà đó là bụi bặm dính lên mặt hắn thôi.

Đầu óc tôi bây giờ hoàn toàn tắc tị, chỉ biết ngây người ra nhìn hắn, mấy vấn đề lúc trước nghĩ tới đều quên hết sạch, nhất thời không biết nói năng chi. Mà hắn thì hình như chẳng thèm để ý gì đến tôi, chỉ thờ ơ liếc mắt nhìn tôi một cả, chẳng hỏi han gì, rồi cẩn thận khom lưng đến bên cạnh cánh cửa kia, dùng hỏa chiết tử soi vào trong cửa, sau đó liền đóng nó lại.

Đóng cửa xong hắn đứng bật dậy, giơ hỏa chiết tử soi lên trần phòng, bắt đầu tìm kiếm thứ gì đó. Tôi giận sôi hết cả ruột gan, mấy lần muốn xông ra xỉa xói mấy câu nhưng đều bị hắn dùng tay ra hiệu chặn lại.

Cái động tác đó có lực mạnh và tốc độ cực nhanh, khiến tôi cảm thấy thời gian đang rất gấp rồi, mà hành động của hắn tôi lại chẳng hiểu gì cả, đành liếc mắt nhìn theo ánh lửa của hắn.

Hỏa chiết tử không sáng lắm, nhưng trong bóng tối như thế này, cộng với sự liên tưởng của bản thân, tôi lập tức hiểu rõ được tình cảnh trong căn phòng này.

Lúc đi vào tôi không chú ý đến trần của phòng ngầm, giờ ngẩng đầu lên liền phát hiện trên đó toàn là những đường ống, giống hệt như bãi để xe ô tô thời hiện đại. Những đường ống này đều được quét một lớp sơn xám bạc phếch. Có thể thấy chỗ này từng được tân trang nhiều lần, dưới lớp sơn còn có lần sơn cũ. Nóc phòng phủ vôi trắng, lớp vôi được quét bên ngoài gạch gần như đã tróc ra từng mảng, để lộ từng đoạn từng đoạn gạch trần. Xem ra con Cấm Bà kia chính là theo đường này mà bò vào.

Bảo sao ở nơi này lại có cái thứ đó, hóa ra cái đệch con mọe nó chứ chính là chui từ đây ra chứ đâu.

Muộn Du Bình nhìn khắp một lượt, trông rất cẩn thận nhưng động tác cực nhanh nên nửa chừng hỏa chiết tử tắt mất. Hắn lại nhanh chóng thắp một cái khác lên, xác định không có thứ gì nấp ở đó. Thế rồi hắn quay lại trước mặt tôi.

"Không ra cùng." Hắn nhìn cánh cửa kia nói khẽ.

Tất cả mọi câu hỏi mọi thắc mắc nén nghẹn trong tôi gần như muốn nổ lanh tanh bành mà phọt ra hết đằng miệng rồi. Nhưng không ngờ hắn vừa quay đầu về phía tôi, liền ra dấu bảo tôi nhỏ giọng thôi. Tiếp đó hắn hỏi một câu nhẹ như gió: "Cậu tới đây làm gì?"

Tôi lập tức máu xông lên não, muốn nhảy dựng lên bóp hắn chết tươi luôn, trong lòng gầm rú tiên sư bố nhà anh cái đồ mặt thớt! Anh hỏi tôi ấy hả, bố đây còn chưa hỏi anh đây này! Tưởng tôi rảnh háng lắm nên tự đến đây à? Nếu không phải vì mấy cuốn băng ghi hình kia, có đánh chết bố cũng đéo thèm đến chỗ này đâu!

Tôi nghiến răng những muốn nổi trận lôi đình văng đủ thứ tục tĩu ra luôn, nhưng nhìn đến mặt hắn tôi lại không sao thoải mái văng vãi các kiểu như khi ở cùng với Bàn Tử được. Những lời thô tục kia không có chỗ văng ra, nghẹn đến suýt nữa khiến tôi nội thương. Tôi cắn răng nhịn xuống hồi lâu mới trả lời được: "Nói ra dài lắm. Anh... sao lại ở trong này? Mà đây rốt cuộc là chỗ nào? Anh anh anh... lúc đó, không phải đã vào cánh cửa kia rồi sao? Mẹ kiếp ở đây là có chuyện gì xảy ra thế?"

Thực sự khó khăn lắm mới nói ra được mấy câu hỏi này. Trong đầu tôi đã rối thành một mớ bòng bong rồi, cũng không biết phải nói sao mới có thể sắp xếp những câu hỏi này cho hợp lý được.

"Nói ra dài lắm." Muộn Du Bình chẳng biết căn bản là không muốn trả lời hay là đang đánh trống lảng. Lúc tôi nêu câu hỏi thì sự chú ý của hắn đã được ném về phía cỗ quan tài đá khổng lồ kia rồi. Tôi nhìn một chút, quả đúng là nắp quách đá đã bị đẩy ra để lộ một khe hở lớn, nhưng bên trong tối om nên chẳng biết có cái gì.

Tôi sợ nhất là lúc hắn như thế này. Còn nhớ trước kia, hễ cứ có vấn đề nào mấu chốt mà tôi hỏi đến là y như rằng hắn sẽ bày cái vẻ này ra, tức thì tôi lại không muốn truy hỏi thêm nữa. Thế nhưng tôi còn chưa mở miệng thì Muộn Du Bình đã vẫy tay một cái với tôi, lại bảo tôi đừng nói nữa, quay đầu nhìn vào trong quan quách.

Động tác này tôi đã quá quen thuộc. Tuy không biết xảy ra chuyện gì, nhưng tôi lập tức ngậm miệng theo phản xạ, cũng đến gần nhìn vào cỗ quan tài. Nhờ Muộn Du Bình đưa hỏa chiết tử đến, tôi mới loáng thoáng thấy bên trong. Ấy thế mà, trong quan tài lại trống rỗng. Tôi thấy đáy cỗ quan tài đá sạch như lau như li chẳng có đồ đạc gì, nhưng quái gở chính là, dưới đáy quan tài ấy lại có một cái cửa hang.

Tôi đang tò mò thì chợt nghe thấy từ trong hang truyền ra một vài tiếng động rất nhỏ, cẩn thận lắng tai cũng không nghe ra được cái gì. Chỉ trong chốc lát, đột nhiên một cánh tay liền thò ra từ trong hang, một người như con cá chạch tuồn ra từ cửa hang chật hẹp kia, sau đó xoay người một cái vọt ra theo khe hở ở nắp quan tài, uyển chuyển đáp xuống trước mặt chúng tôi.

Tôi sợ đến nhảy dựng cả lên. Chỉ thấy người nọ sau khi tiếp đất thì chùi mồ hôi lạnh trên đầu một lát, liếc nhìn Muộn Du Bình, tiếp đó giơ lên món đồ trong tay, khẽ nói: "Đã vào tay."

Người kia tựa hồ chỉ đợi chính lúc này, vỗ tôi một cái rồi nói khẽ: "Đi thôi!"

Tôi đi theo bọn họ, cẩn thận từng chút nhón mũi chân rón ra rón rén theo đường cũ quay lên. Nhưng mới sải bước được hai ba bậc cầu thang đã nghe cửa phía sau mở đánh két một tiếng.

Người phía trước liền chửi một câu, bắt đầu vùng chạy. Tôi lập tức bám theo, một mạch chạy như điên, lăn lê bò toài mà xông ra ngoài. Xông thẳng ra cái sân nhỏ rồi phi qua tường bao, chúng tôi mới thở phào nhẹ nhõm.

Tôi mệt mỏi thở hồng hộc. Thế nhưng hai người kia căn bản không định dừng lại, sau khi phi xuống liền chạy trối chết ra ngoài, bỏ mặc luôn tôi ở đó. Tôi tự nhủ lần này anh đừng hòng thoát khỏi tôi nhá, rồi vội vã đuổi theo.

Lại là chạy thục mạng, chạy thẳng ra khỏi khu phố cũ. Đột nhiên một chiếc xe mười sáu chỗ từ trong bóng tối vọt ra. Cửa xe lập tức bật mở, hai người kia tiến đến nhảy tọt vào. Chiếc xe kia vốn không định đợi tôi, cửa xe muốn đóng sập luôn lại, nhưng không biết là do ai giữ lại một thoáng, tôi mới cố kiết nhảy lên được.

Tôi thở không ra hơi. Lần chạy trốn này quả thực là tối tăm mặt mũi. Lên xe rồi tôi liền tê liệt, gục tại chỗ nhắm mắt hớp vài ngụm không khí mới tỉnh được ra.

Lập tức tôi liền nhìn bốn phía, nhìn xong thì choáng váng. Chiếc xe này bên trong chật kín người, hơn nữa toàn bộ đều đang dùng một cái vẻ mặt đểu giả như cười mà không phải cười để nhìn tôi. Vả lại, điều khiến tôi không thể tưởng tượng được nhất, đó là trên xe có rất nhiều người tôi biết. Tôi liếc một cái liền thấy mấy gương mặt cực kỳ quen thuộc.

Trời ạ, tất cả đều là đám may mắn sống sót từ trong Vân Đỉnh Thiên Cung kia đi ra chứ ai! Đội của A Ninh, cái đám Tây Tàu lẫn lộn, chúng tôi đã ở Cát Lâm cùng nhau lăn lộn đã lâu rồi.

Thấy vẻ mặt kinh ngạc của tôi, mấy người tôi đã qua lại đến nhẵn mặt kia liền nở nụ cười. Một người Caucasus dùng thứ tiếng Trung sứt sẹo nói với tôi: "Siêu Nhân Ngô (SuperWu là ngoại hiệu A Ninh đặt cho tôi), hữu duyên thiên lý lai tương kiến." Tiếp đó tôi thấy A Ninh ló đầu ra từ sau một băng ghế ngồi, nhìn tôi một cách cực kỳ kinh ngạc.

(Caucasus: ngày xưa các c hay gi là Cáp-ca-dơ, gi gi là gì mình cũng chu. Nó chính là khu vc dãy Kavkaz gia Nga vi Trung Đông đó.)

Tôi nhìn nhìn Muộn Du Bình, lại nhìn nhìn người ban nãy chui ra từ trong cỗ quan tài đá. Đó là một thanh niên lạ mặt mang kính râm. Hai người bọn họ đều không hề thở gấp, cũng đang nhìn lại tôi. Đột nhiên tôi cảm thấy bấn loạn quá, bèn hỏi bọn họ: "Cái đám khỉ gió này, ai có thể nói cho tôi biết rốt cuộc là có chuyện gì xảy ra không hả?"

A Ninh liền nói: "Chuyện này nên hỏi anh mới đúng chứ, sao anh lại ở trong phòng ngầm?"

Chiếc xe mười sáu chỗ chạy thẳng một lèo qua nội thành Cách Nhĩ Mộc, chẳng mấy chốc đã vọt vào sa mạc. Mà tôi ngồi trong xe, ngoài cửa sổ tối mịt nên chẳng biết gì về chuyện này.

Trên đường đi, tôi và A Ninh nói một câu chuyện dài, cùng kể lại câu chuyện của cả hai bên.

Hóa ra A Ninh phát hiện thấy địa chỉ và chìa khóa trong băng ghi hình. Rõ ràng trong "ba người" được nhắc đến trong cuốn sổ tay của Văn Cẩm, có một người chính là cô ta. Sau khi cô ta phát hiện bí mật này thì lập tức phân chia hai tuyến công tác. Một mặt cho người đến nơi này dò tìm địa chỉ, một mặt thân chinh đến Hàng Châu để dò xét tôi. Cô ta muốn xem tôi rốt cuộc có biết bí mật trong băng ghi hình này hay không.

Nhưng điều mà cô ta thật sự không ngờ chính là kỳ thật tôi cũng nhận được cuộn băng như vậy. Hơn nữa, sau khi cô ta tìm đến, tôi đã nhanh chóng xuất phát đi Cách Nhĩ Mộc, thậm chí đã tìm được tòa nhà ma kia gần như cùng lúc với họ.

(Cũng may tôi lần này hành động thật sự mau lẹ sáng suốt, chứ không thì đảm bảo là đã chẳng sờ được tới cuốn sổ tay kia rồi. Nghĩ lại tôi liền thấy sợ, có điều cũng có chút vui vẻ. Tôi sờ lên cuốn sổ tay trong túi áo. Đây là lần đầu tiên tôi tự mình hành động mà giành được thành quả lớn như thế. Xem ra ông nội quả nhiên nói đúng, làm chuyện gì cũng phải chủ động mới tốt.)

Lúc sau tôi lại hỏi A Ninh đã có chuyện gì với Muộn Du Bình thế, tại sao bọn họ lại ở cùng với nhau vậy. A Ninh liền cười nói: "Sao vậy? Chú Ba anh mời được, bọn tôi mời không được chắc? Hai vị này trông thế mà yết giá công khai đấy. Hiện tại bọn họ là cố vấn của chúng tôi."

Vừa nói xong thì gã kính đen liền nhếch môi cười, khoát tay với tôi.

"Cố vấn?" Nhắc đến cố vấn tôi cũng nhớ đến Bàn Tử, tự nhủ A Ninh lần này đã có kinh nghiệm, mời được người đáng tin cậy rồi. Có điều Muộn Du Bình mà lại thành cố vấn của A Ninh ấy hả? Cảm giác thật quái lạ, tôi thấy mình như bị phản bội.

Lúc này người Caucasus ngồi một bên liền nói: "Đừng nghe cô này nói linh tinh. Hai vị đây bây giờ là đồng sự hợp tác cùng chúng tôi, do ông chủ của chúng tôi trực tiếp cử đến đấy. Ninh chỉ là phụ tá thôi. Hiện giờ hành động chủ yếu đều do bọn họ phụ trách, chúng tôi chỉ lo phần thông tin và tiếp ứng. Chuyện này tương đối an toàn. Ông chủ nói về sau việc chuyên nghiệp thì cứ phải để dân chuyên nghiệp làm."

Đây là do ở Vân Đỉnh chết nhiều người quá. Tôi nhớ lại tình hình lúc đó, bèn hỏi: "Tất cả mọi việc là thế nào thế? Nội dung băng ghi hình, còn có con Cấm Bà ở bên trong, các anh có manh mối gì không?"

Chuyện này cả mấy người liền lắc đầu, hơn nữa ánh mắt đều ném cả về phía Muộn Du Bình và Hắc Nhãn Kính. A Ninh liền trừng mắt nhìn bọn họ, sau lại liếc về phía tôi một lát, rồi nói: "Tình hình cụ thể chúng tôi cũng không rõ lắm, có lẽ cũng không biết nhiều hơn cậu là mấy đâu. Chúng tôi bây giờ đang hành động theo lời bọn họ. Hai anh bạn này khó nói chuyện lắm."

Nghe những chuyện này xong, tôi liền quay sang Muộn Du Bình. Lúc này kìm nén không được nữa, tôi nhất định phải hỏi hắn cho rõ ràng ra, bắt hắn phải nói cho tôi biết rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì.

Thế nhưng chẳng đợi tôi chuẩn bị sẵn sàng, khoang xe đột nhiên bắt đầu rung lên. Bác tài người dân tộc Tạng hô một tiếng, tất cả mọi người bắt đầu lấy hành lý của mình.

Tiếp đó xe chạy chậm dần rồi dừng hẳn, cửa xe bị xô bật mạnh ra. Bên ngoài đã có thể nhìn thấy một tia sáng ban mai. Luồng gió trên bãi sa mạc lạnh cóng ùa đến dữ dội.

Tôi bị đẩy xuống xe, sau đó liền được chứng kiến một cảnh tượng khiến tôi phải trợn mắt há mồm. Hơn mười chiếc Land Rover xếp thành một hàng đậu trên sa mạc, một lượng lớn đồ đạc chồng chất trên mặt đất, lửa trại từng đống, đâu đâu cũng thấy toàn là người mặc áo ba-đờ-xuy, còn có rất nhiều người nằm trong túi ngủ, ăng-ten vệ tinh to tổ bố và đèn măng-sông chiếu sáng dựng một bên.

Chỗ này trông cứ như bãi tập kết của đám bạn chơi xe vậy, nhưng nhìn kỹ thì biết ngay không phải. Tất cả các xe ở đây đều được sơn một kiểu thống nhất, trên cửa xe đều có một logo hình san hô sừng hươu thùy tròn xoay quanh tâm, vừa nhìn đã biết là tài sản của công ty A Ninh.

Thấy chúng tôi đổ bộ xuống, rất nhiều người chạy tới vây quanh. Chẳng biết A Ninh nói gì với họ mà có rất nhiều người reo hò ầm lên.

Cảnh tượng này khiến tôi vô cùng hốt hoảng. Tôi túm lấy anh bạn người Caucasus đang vỗ tay ăn mừng với người khác, hỏi anh ta đang làm gì?

Anh chàng người Caucasus vỗ vỗ tôi: "Anh bạn à, chúng ta sắp đi 'Tháp Mc Đà' rồi đó."

Chương 45. Nơi tp kết

Tôi nghe mà trợn mắt há mồm. Mới đây thấy tên địa điểm này được nhắc đến trong sổ tay của Văn Cẩm, mà sao giờ bọn họ cũng sắp tới đó rồi. Trong chốc lát tôi không kịp phản ứng gì. Hơn nữa bọn họ chắc hẳn chưa từng đọc được quyển sổ tay của Văn Cẩm đâu, vậy cớ sao lại biết đến sự tồn tại của nơi này chứ?

"Sao thế?" Anh chàng người Caucasus thấy vẻ mặt tôi kỳ quái, bèn hỏi thăm: "Sao tự nhiên mặt mũi trắng bệch ra thế kia?"

"Không có gì. Mới rồi bị dọa đó mà." Tôi lập tức che đậy một câu, rồi làm bộ như lạ lùng lắm, vừa bám theo anh ta vừa hỏi: "Tháp Mộc Đà là chỗ nào? Các anh tới đó làm gì thế?"

"Tháp Mộc Đà hả? Cái này nói ra dài lắm," Anh chàng Caucasus nhìn nhìn A Ninh đi phía trước một chút rồi nhỏ giọng bảo tôi: "Để lát nữa tôi kể cho nghe. Chúng ta đi xem xem hai vị Tiểu ca kia mang từ trong ấy ra thứ gì trước đã."

Tôi thấy ánh mắt anh ta nhìn tôi, hình như A Ninh không cho anh ta kể những chuyện này thì phải. Thế là tôi cũng ngầm hiểu trong lòng, cũng không gặng hỏi nữa.

Người trong khu tập kết cứ chạy qua chạy lại báo tin cho nhau, mấy người đang say giấc nồng trong túi ngủ đều bị đánh thức dậy. Chúng tôi đành phải cẩn thận luồn lách qua đám túi ngủ ngọ nguậy, đi một mạch theo nhóm A Ninh.

Cả khu tập kết thật là lớn, bao trọn cả cái bãi tập trung xe Land Rover1 ở ven đường nữa. Phía sau còn có một mảng toàn lều bạt, trong đó mái lều tròn lớn nhất đường kính phải tới bốn-năm mét, hẳn là do dân bản xứ dựng lên, bên trên còn có chữ Tạng đánh dấu, hình như là bảng giá thuê trọ. A Ninh dẫn chúng tôi vào. Trong lều rất ấm. Tôi thấy bên mép lều có đốt một lò than có ống khói nhỏ, trên nền đất trải lớp thảm lông dày nhiều màu sặc sỡ. Sau này tôi mới biết thứ đó gọi là "len lông cừu thô", hiện giờ là thứ tương đối xa xỉ. Ngoài ra còn có rất nhiều đồ gỗ gia dụng kiểu dân tộc Tạng ngày xưa, cùng với một số túi vải không dệt(*) ràng thành từng bó chưa được tháo ra.

(*) vi không dt (Non woven fabric): có cu to t các ht nha tng hp và mt s thành phn tái chế tùy theo mc đích s dng, sau đó kéo thành các si và liên kết vi nhau bng dung môi hóa chân hay nhit cơ khí to thành nhng tm vi nh và xp.

Cả căn lều thật ấm cúng dễ chịu. A Ninh ngồi xuống thảm trải sàn. Một người Tạng tiến đến, hình như là chủ lều, rót trà bơ cho mỗi người bọn tôi. Tôi bèn ngồi xuống quan sát những người này một chút.

Kẻ khiến tôi phát cáu nhất chính là Muộn Du Bình. Tên này ngồi ngay đối diện tôi, thế mà lại chẳng thèm nhìn tôi lấy một cái, chỉ tựa vào một đống chăn chiên bự rồi lập tức nhắm mắt nghỉ ngơi. Đám người trên xe ban nãy không đến hết cả đây, mà chỉ có một số người tôi không quen biết, làm tôi cũng không được tự nhiên cho lắm. Trong số những người này, tôi chỉ biết mỗi Ô Lão Tứ và anh chàng người Caucasus, còn lại đều là những khuôn mặt lạ hoắc.

Những người đó lục tục ổn định chỗ ngồi. A Ninh liền lấy thứ mà Hắc Nhãn Kính vừa đem ra từ tòa nhà ma lên, đặt xuống cái bàn thấp trước mặt chúng tôi.

Đó là một cái hộp dẹt bằng gỗ lim, sau khi mở ra thì thấy bên trong là một chiếc mâm sứ Thanh Hoa đã tàn tạ. Mảng mâm bên trái bị khuyết mất một miếng to cỡ bàn tay.

Bên dưới cỗ quan tài đá nọ chắc chắn phải có một khoảng trống, như vậy xem ra chiếc mâm sứ này vốn được đặt ở trong khoảng trống đó. Đây là cái gì vậy? Vì sao nhóm Muộn Du Bình lại đi trộm thứ này về? Tôi không khỏi có chút hiếu kỳ.

Đúng lúc tôi đang định rướn cổ về phía chiếc mâm sứ để nhìn, thì đột nhiên lúc này lại có hai người từ bên ngoài bước vào lều. Đó là một cụ bà người Tạng đầu tóc bạc phơ, và một phụ nữ trung niên cũng là người dân tộc Tạng. Bà cụ người cũng gầy còm hom hem giống Trần Bì A Tứ, ước chừng cũng quá bảy mươi rồi, có điều trông vẫn khá quắc thước, ánh mắt rất sắc bén. Còn người phụ nữ trung niên kia thì trái lại diện mạo cũng như một người Tạng bình thường. Hai người bọn họ vừa bước vào thì bầu không khí trong cả lều bạt đột nhiên biến đổi. Ngoại trừ Kính Râm và Muộn Du Bình, những người khác đều không kìm được mà ngồi thẳng cả người lên, quay về phía bọn họ, nhất là với bà cụ nọ. Thậm chí còn có hai người còn hành lễ với bà. Dường như địa vị của bà lão người Tạng này ở đây khá là cao.

Bà cụ cũng đáp lễ, rồi lại thoáng đánh giá chúng tôi một chút, đặc biệt là tôi. Có lẽ vì thấy tôi lạ nên bà ta nhìn nhiều thêm mấy lần, rồi mới ngồi xuống. A Ninh liền kính cẩn cầm mâm sứ kia lên đưa cho bà ta rồi lễ phép hỏi: " Nữ Lạt Ma, ngài xem xem, thứ năm đó ngài thấy có phải vật này không?"

Nói xong thì lập tức có người phiên dịch sang tiếng Tạng. Bà cụ nghe xong bèn đón lấy chiếc mâm sứ, bắt đầu ngắm nghía, xem được vài lần liền không ngừng gật đầu, đồng thời nói liến thoắng cái gì đó bằng tiếng Tạng. Người phiên dịch bắt đầu dịch ngược lại lời bà cụ vừa nói, mấy người bọn họ liền bắt đầu trò chuyện với nhau.

Bọn họ đối đáp ngắt quãng, người phiên dịch thì không chỉ trình độ tiếng Tạng làng nhàng mà chết dở hơn nữa là tiếng Trung hình như cũng chẳng ra sao, cứ ngắc nga ngắc ngứ. Tôi căng tai ra mà nghe nhưng cũng chả nghe ra gì cả, bèn nhỏ giọng hỏi Ô Lão Tứ bên cạnh xem bà cụ này là ai thế.

Ô Lão Tứ không trả lời tôi, nhưng tay Kính Râm ngồi cạnh đã lên tiếng. Hắn thì thào nói với tôi: "Bà ấy tên là Định Chủ Trác Mã, là người dẫn đường cho Văn Cẩm năm xưa đó."

Tôi nghe thấy cái tên này thì "A" lên một tiếng, lập tức đã hiểu ra không ít, cũng thầm kinh ngạc vì sự thần thông quảng đại của công ty A Ninh. Bọn họ không chỉ biết tháp Mộc Đà mà còn biết là có người dẫn đường này nữa. Nói vậy thì A Ninh hẳn là phải biết chuyện về Văn Cẩm rồi đúng không?

Tôi đọc cuốn sổ tay của Văn Cẩm thì hiểu là bọn họ xuất phát từ Đôn Hoàng, tiến vào quá khu vực trung tâm của Sài Đạt Mộc. Cô ấy quả thực cũng có đề cập tới việc bọn họ đã mời một phụ nữ dân tộc Tạng làm người dẫn đường. Tôi không khỏi sờ lên cuốn sổ tay trong túi áo, thầm hỏi thế này là sao nhỉ? Lẽ nào còn có người khác đã từng đọc cuốn sổ tay này hay sao?

Có điều, tôi vẫn nhớ rằng trong sổ tay của Văn Cẩm cũng có nói người phụ nữ dẫn đường này còn chưa đưa họ vào sâu trong thung lũng lắm. Sau khi qua khỏi khu Đại Sài Đán, tiến vào khu vực Sát Nhĩ Hãn (h mui Qarhan), người phụ nữ dẫn đường này cũng không tìm được đường đi tiếp nữa. Trên thực tế là cũng chẳng có bất cứ đường nào để mà tìm. Cuối cùng, bọn họ đành chia tay với người dẫn đường trước một ngọn núi muối, tự mình xuất phát đi sâu vào trong hơn nữa. Thung lũng Sài Đạt Mộc rộng hơn 240.000 kilomet vuông, hành trình cuối cùng của bọn họ đã đi ròng rã mất ba tuần, kết cục là đã đi tới nơi nào thì không ai nói rõ được.

Xem ra, nếu bọn họ muốn tới Tháp Mộc Đà thì e bà cụ này cũng không thể đem đến cho nhóm của A Ninh sự giúp đỡ hữu dụng nào, nhiều lắm cũng chỉ có thể dẫn bọn họ tới nơi chia tay với đội của Văn Cẩm năm ấy.

Tôi còn đang nghĩ ngợi thì cuộc đối thoại giữa A Ninh và Định Chủ Trác Mã đã kết thúc. Chào theo nghi lễ xong, người phụ nữ trung niên liền đỡ bà cụ ra ngoài. Có một vài người nghe không hiểu liền hỏi xem tình hình sao rồi. A Ninh đã không dấu nổi nét cười trên gương mặt, phấn khởi nói: "Quả không sai! Bà ấy nói đúng là cái đĩa này rồi. Đây chính là thứ mà Trần Văn Cẩm năm xưa đã đưa cho bà ấy xem. Bà ấy nói có chiếc đĩa này, bà có thể dẫn nhóm chúng ta tìm được cửa núi năm đó."

Đám người liền bắt đầu xôn xao. Kính Râm lại hỏi: "Khi nào thì xuất phát?"

A Ninh đứng lên, nói với bọn họ: "Hôm nay, mười hai giờ trưa, tất cả mọi người cùng xuất phát." Nói xong, những người khác cũng đều đứng cả lên, định đi ra ngoài.

Lúc này, gã đeo kính râm đó lại hỏi: "Còn cậu ta thì thế nào? "

Nói đoạn liền trỏ vào tôi.

Nhóm A Ninh bèn ngoảnh hết cả lại về phía tôi. Hình như vừa rồi bọn họ đã quên khuấy mất rằng tôi vẫn còn lù lù ở đây. Mấy người bọn họ đều sửng sốt một hồi lâu. Tôi thì nhìn A Ninh chằm chằm, để xem cô ta sẽ nói thế nào.

Chẳng ngờ A Ninh cũng không để ý gì nhiều, ngẫm nghĩ một tí rồi mới chỉ vào Muộn Du Bình ngồi một bên, bảo với Kính Râm: "Anh ta rước về thì anh ta đi mà chăm". Nói xong liền dẫn người đi ra ngoài mất. Trong lều bạt chỉ còn lại hai người là tên Kính Râm và Muộn Du Bình.

Kính Râm cười ruồi hai tiếng, cũng tựa người vào đống chăn chiên, châm thuốc hút, rồi ngồi đó mà nhìn Muộn Du Bình, nói: "Tôi đã nói là anh mua dây buộc mình rồi mà. Ban nãy đừng cho cậu ta lên xe thì không được chắc? Giờ anh bảo phải làm thế nào đây?"

Muộn Du Bình ngẩng đầu lên, thờ ơ liếc nhìn tôi một cái, rồi thở dài với vẻ rất bất đắc dĩ,\ nói với tôi: "Cậu về đi. Ở đây không có chuyện của cậu. Đừng vào trại an dưỡng kia nữa. Thứ bên trong nguy hiểm lắm."

Tôi nhìn hắn, trong lòng cực kì không vui.

Nói thật ra thì tôi cũng nào có muốn đến cái chỗ rắm chó kia làm gì. Tôi cũng chả biết nhóm A Ninh vì sao lại phải đến cái nơi đó nữa. Hiện giờ tôi chỉ muốn biết, rằng rốt cuộc Muộn Du Bình đã làm cái gì ở Vân Đỉnh Thiên Cung kia. Cảnh tượng khủng khiếp mà tôi chứng kiến đó, rốt cuộc là thế nào vậy.

Thế là tôi bèn đáp: "Muốn tôi quay về cũng được thôi. Tôi chỉ muốn hỏi anh mấy vấn đề."

Muộn Du Bình vẫn nhìn tôi bằng ánh mắt lãnh đạm, lắc đầu nói: "Chuyện của tôi cậu không thể hiểu được đâu. Hơn nữa, có một số chuyện, tôi cũng đang đi tìm đáp án." Nói xong hắn cũng đứng lên, đi thẳng ra ngoài lều mà không thèm ngoái lại lấy một lần.

Tôi tức đến run bắn cả người, suýt nữa thì hộc cả máu. Nhìn cái bóng lưng hắn mà tôi thật chỉ muốn nhào lên bóp chết hắn cho rồi.

Tên Kính Râm kia cũng thở dài, đến bên cạnh vỗ vỗ tôi rồi bảo: "Ở đây có xe buýt, ba tiếng đồng hồ là về tới thành phố rồi. Đi đường bình an nhé."

Nói xong, anh ta cũng ra khỏi lều bạt. Trong lều chỉ còn một mình tôi. Quang cảnh bỗng trở nên lặng ngắt.

Tôi cảm thấy thật tẽn tò, cảm giác như mình bị xem thường, thậm chí còn là bị vứt bỏ, khó chịu vô cùng. Thái độ vừa rồi của đám người A Ninh, Muộn Du Bình và Kính Râm đó quả thực chẳng khác nào coi tôi là cái thằng ất ơ có cũng được không có cũng chả sao. Thái độ đó còn khiến người ta bị tổn thương nhiều hơn là xỉ vả nhục mạ hay căm ghét oán giận.

Thế nhưng vấn đề mà Kính Râm nói là thực.

Nghĩ thử mà xem, nhóm của A Ninh phải lên đường. Tôi là được bọn họ cứu ra từ ngôi nhà ma kia. Đó là một tình huống bất ngờ, cho nên họ căn bản không hề chuẩn bị phương án sắp xếp nào cho tôi cả, mà họ cũng không có trách nhiệm phải giải thích gì cho tôi hết. Tôi đương nhiên là nên về.

Nhưng mà tôi thực sự không cam lòng. Nhìn mọi người đi lại tấp nập ngoài lều bạt, công tác chuẩn bị khí thế ngút trời, tôi nhìn cũng thấy máu sôi lên sùng sục. Tôi nghĩ, trở về rồi thì mình có thể làm gì đây? Người gửi đồ là Văn Cẩm thì sớm đã đi trước tôi một bước rồi. Người này có thể trốn tránh suốt hai mươi năm ròng, đến mức chú Ba giở đủ ngón nghề vẫn chẳng lần ra tung tích, thì tôi còn biết tìm kiếm thế nào? Lẽ nào tôi lại phải giống như chú Ba, vì một câu đố mà bỏ ra ba mươi năm để tìm cô ấy hay sao? Không có chuyện đó đâu.

Chuyện đã xảy ra trong trại an dưỡng mập mờ không rõ đầu đuôi, lại hoàn toàn chẳng có lấy một tẹo manh mối nào. Cuốn sổ tay Văn Cẩm lưu lại cũng liên tục nhắc đến cái chỗ "Tháp Mộc Đà" nọ. Mà giờ đây, nhóm người bên ngoài sắp xuất phát tới đó, còn tôi lại phải chuẩn bị mua vé ngồi xe buýt về nhà.

Manh mối duy nhất của toàn bộ câu chuyện, hiện tại chỉ còn lại cuốn sổ trong túi áo của tôi. Mà nội dung trong cuốn sổ dường như cứ một mực ngầm gợi ý rằng tôi phải tới Tháp Mộc Đà thì mới có thể biết chút gì đó.

Tôi nên làm gì bây giờ? Quay về Cách Nhĩ Mộc thì tôi có thể làm được cái gì chứ? Chẳng làm được gì sất.

"Đã làm vic thì phi ch đng."

Bỗng nhiên bên tai tôi vang lên câu nói này của ông nội. Sau đó tôi sờ sờ cuốn sổ tay trong túi áo, nghĩ tới những gì trải qua ở Cách Nhĩ Mộc lần này, hoàn toàn là nhờ tôi hành động nhanh mà lại quyết đoán nên mới giành được thời cơ trước.

Được rồi. Tôi lập tức đưa ra một quyết định. Mẹ kiếp, Muộn Du Bình, đừng có mà hợm hĩnh. Anh đi được thì Ngô Tà tôi đây cũng đi được. Lần này tôi cứ đi theo đấy! Tôi bèn đứng lên, bước lại chỗ A Ninh đang chuẩn bị hành lý bên ngoài rồi hỏi cô ta: "Cô có còn thừa trang bị không?"

A Ninh đang kiểm kê lại số lương khô của mình, nghe tôi đột nhiên hỏi thế liền kinh ngạc vô cùng: "Thừa trang bị á? Anh muốn làm gì?"

Tôi nhún vai, có phần không biết phải mở miệng thế nào: "Tôi muốn tham gia. Tôi muốn nhập đội. Tôi cũng phải đi Tháp Mộc Đà!"

" Tham gia cái đầu anh ấy!" A Ninh bật cười, quay đi không thèm để ý tới tôi. Thế nhưng tôi vẫn tiếp tục nhìn cô ta, nói: "Tôi có thể giúp các cô đó. Cứ ngẫm lại hồi còn ở trong Vân Đỉnh Thiên Cung mà xem."

A Ninh ngẩng đầu lên, sắc mặt thay đổi. Cô ta nhìn ánh mắt của tôi rồi mỉm cười một cái: "Anh nghiêm túc thật à?"

Tôi gật đầu. Cô nàng liền chỉ vào xe trang bị ở bên: "Cứ tha hồ lấy. Đúng mười hai giờ xuất phát. Đến trễ không đợi đâu đấy."

Chương 46. Xut phát

Đội xe Jeep chạy như bay trên sa mạc mênh mông không bờ bến. Khí hậu khô không khốc, khoảng cách giữa các xe được giữ khá xa để tránh bụi vàng từ xe trước tung lên mù mịt đầy trời.

Tôi ngồi trong xe nhìn ra ngoài cửa sổ, nghĩ lại quyết định lúc trước, chẳng làm biết thế có đúng hay không, chứ giờ này lại thấy hình như hơi bị liều quá mức rồi. Có điều hiện tại tôi đã bước chân lên tàu cướp biển, cũng chẳng còn mặt mũi nào mà nuốt lời nữa.

Trước lúc lên đường kế hoạch của A Ninh đã được phổ biến cho tôi. Tôi phát hiện ra nó hoàn toàn dựa theo tuyến đường của Văn Cẩm năm đó, xuất phát từ Đôn Hoàng, qua Đại Sài Đán mà tiến vào khu vực Sát Nhĩ Hãn, từ đó rời khỏi đường quốc lộ, tiến vào khu vực không có dân cư của lòng chảo Sài Đạt Mộc. Tiếp theo là do Định Chủ Trác Mã dẫn đường, đưa cả đội tới nơi mà bà đã chia tay với đoàn thám hiểm năm ấy.

Tuyến đường này gần như giống hệt ghi ghép của Văn Cẩm trong cuốn sổ tay. Tôi liền thấy bực dọc hết sức. Rốt cuộc cô ta moi từ đâu ra những thông tin này cơ chứ? Rõ ràng cô ta đã biết đến Tháp Mộc Đà, biết Định Chủ Trác Mã, biết cả tuyến lữ hành, thoạt nhìn cứ như cô ta đã từng đọc cuốn sổ tay ấy. Thế nhưng sổ tay đang nằm trong túi áo của tôi cơ mà.

Đoàn xe bổ sung vật tư dọc đường, chẳng mấy chốc đã tới Đôn Hoàng theo kế hoạch. Có người nói cho tôi biết rằng tuyến đường trước khi vào tới khu vực Sát Nhĩ Hãn còn khá giống tuyến đường đi phượt, vẫn tương đối an toàn.

Suốt cả đường đi, những sống phong thực (1) dọc hai bên khiến tôi thấm thía sự hoang vu của sa mạc. Cái kiểu cuối đất cùng trời mênh mông không bờ bến này khiến cảm giác bị ruồng bỏ trong con người ta dâng lên mãnh liệt. Lúc mới đầu cảm giác đó còn được xoa dịu đôi chút bởi rất nhiều những điểm dân cư nay đã trở thành phế tích, nhưng đến khi chúng tôi rời khỏi Đôn Hoàng, đi lên đường quốc lộ Sát Nhĩ Hãn, nhanh chóng phi thẳng vào bãi sa mạc, thì không còn cách nào xua tan được nó nữa. Loại cảm giác sinh ra do chạy xe liên tục mười mấy tiếng đồng hồ mà cảnh sắc xung quanh vẫn hầu như không đổi này thực sự khiến người ta ngộp thở. Được cái là đội hình của A Ninh đông khủng khiếp, lúc hạ trại náo nhiệt ồn ào, ít nhiều cũng khiến cho trong lòng chúng tôi thoải mái được phần nào.

Tôi và anh chàng người Caucasus nọ cùng ngồi một xe. Anh ta cùng một tài xế người Tạng thay phiên nhau lái. Trên đường đi, tôi liền đưa mấy vấn đề này ra hỏi xem anh ta có thể trả lời hay không.

Anh chàng người Caucasus cũng thoải mái giải đáp. Nghe xong, tôi mới thấy hóa ra mình đã phức tạp hóa vấn đề quá lên. Tôi vốn cứ cho rằng phải đọc được cuốn sổ thì mới biết đến tháp Mộc Đà, đến Định Chủ Trác Mã và tuyến lữ hành. Thực ra hoàn toàn không phải như thế. Biện pháp đầu tiên A Ninh áp dụng khi nhận được cuốn băng hình là điều tra công ty chuyển phát nhanh đã gửi bưu kiện nọ. Từ những gì người trong công ty chuyển phát nhanh đó nhớ ra, bọn họ tìm được người gửi: đó chính là Định Chủ Trác Mã.

Sau đó là điều tra sâu thêm một chút, cầm bưu kiện đến, vừa hỏi một cái thì mấy thứ như Tháp Mộc Đà, người dẫn đường, lộ trình, đều tra được hết. Kế hoạch hiện tại cũng đều được lập ra từ thông tin của Định Chủ Trác Mã cung cấp.

Nghe xong tôi mới thấy nhẹ nhõm. Nếu nói vậy thì nội dung nửa trước trong phần thứ ba ở cuốn sổ tay của Văn Cẩm là không quan trọng. Phần quan trọng là đoạn sau khi bọn họ chia tay Định Chủ Trác Mã, tiến vào Tháp Mộc Đà kia cơ. Tiếc là đoạn đó tôi lại xem không kỹ, nhất định phải tìm cơ hội lén đọc lại một lần mới được.

Sau đó, anh chàng người Caucasus lại nói với tôi rằng anh ta biết chuyện về tháp Mộc Đà.

Anh ta nói cho tôi biết rằng, thực ra tìm được Định Chủ Trác Mã rồi thì mời biết được quan niệm này về Tháp Mộc Đà. Căn cứ vào những mẩu đối thoại của đoàn người Văn Cẩm khi ấy mà Định Chủ Trác Mã nghe được, thì hình như đó là trạm dừng cuối cùng của Uông Tàng Hải. Về phần nó ở chỗ nào thì chính nhóm Văn Cẩm cũng không biết, đành phải đi tìm.

Tuy nhiên, Định Chủ Trác Mã sau đó dựa vào những kiến thức và trải nghiệm trên đường đi mà nảy ra suy đoán của riêng mình. Bà ta phát hiện thấy Tháp Mộc Đà mà nhóm Văn Cẩm đi tìm, chính là Tây Vương Mẫu quốc trong truyền thuyết của bọn họ ở vùng này. Theo cách nói của dân bản xứ thì nơi đó có lẽ thường được gọi là Tháp Nhĩ Mộc Ti Đa, nghĩa là "quỷ thành trong mưa". Sau khi phát hiện thấy điều này bà ta cũng rất sợ hãi, nên giả bộ tìm không thấy đường rồi chia tay bọn họ.

"Tây Vương Mẫu Quốc?" Tôi nghe xong cũng hết hồn, "Đó chẳng phải thứ trong thần thoại sao?"

"Thật ra không phải đâu. Tây Vương Mẫu Quốc có tồn tại thật đấy, mà còn vương quốc cổ đại trong lịch sử từ rất xa xưa nữa cơ. Thời kì Hoàng Đế đã có truyền thuyết đó. Tây Vương Mẫu chính là nữ vương của đất nước này. Hồ Thanh Hải trong tiếng người Khương gọi là "xích tuyết giáp mẫu", giáp mẫu là "mẹ đứng đầu", ý chỉ Vương Mẫu. Chúng tôi cho rằng nơi đó chính là Giao Trì của Vương Mẫu, mà tháp Nhĩ Mộc này chính là thủ phủ của quốc gia thuộc về Vương Mẫu. Tây Vương Mẫu trong truyền thuyết Tây Vực đại diện cho sức mạnh của thần linh. Trong những truyền thuyết mà Định Chủ Trác Mã được nghe từ thưở bé, tòa thành này chỉ xuất hiện trong những cơn mưa lớn, hễ nhìn thấy nó thì sẽ bị cướp đi đôi mắt, trở thành mù lòa, cho nên bà ta cực kỳ sợ hãi."
(Khương là mt dân tc thiu s thi c sng tnh Thanh Hi và các tnh lân cn thuc TQ. Giao Trì là nơi ca Tây Vương Mu trong thn thoi)

"Vậy ý của anh là, thứ mà giờ chúng ta đi tìm, thực ra chính là cố đô của Tây Vương Mẫu Quốc?"

"Có thể nói như vậy. Căn cứ vào những phân tích tư liệu khảo cổ hiện có, nhất là mấy năm gần đây, sự tồn tại của Tây Vương mẫu đã được chứng minh là có thật." Gã Caucasus nói, "Trên thực tế, nếu Tháp Mộc Đà nằm trong lòng chảo Sài Đạt Mộc, thì có thể khẳng định nó chính là một phần của Tây Vương Mẫu Quốc. Hiện giờ tuy nói là tìm kiếm Tháp Mộc Đà, thực ra chính là đi tìm di tích của Tây Vương Mẫu Quốc. Mà cậu phải biết thế này: không phải chúng ta đi tìm Tây Vương Mẫu Quốc, mà thứ chúng ta tìm được, tự khắc sẽ trở thành Tây Vương Mẫu Quốc. Đây chính là cuộc thám hiểm khảo cổ."

Tôi nghe xong liền cười khổ. Tây Vương Mẫu? Tôi nhớ rằng thứ đó nào phải mặt hàng dễ chọc vào. Uông Tàng Hải đi sứ lần cuối cùng, chính là đến Tây Vương Mẫu Quốc đó. Nói vậy đủ hiểu chưa?

Ngẫm nghĩ một chút, tôi lại nhớ đến truyền thuyết Hậu Nghệ cầu thuốc trường sinh, bụng nói có khi nào Uông Tàng Hải khi đó cũng là đi tìm thuốc? Cảm thấy thật là phi lý, tôi liền lắc đầu vứt bỏ ý nghĩ này, không suy luận thêm nữa.

Sau đó tôi tính toán ngồi trên xe lục trang bị lấy từ chỗ A Ninh ra một chút. Công ty bọn họ có trang phục đặc biệt, chứ quần áo của tôi mà đi trong sa mạc thì ban ngày sẽ chết vì nắng thiêu, ban đêm sẽ chết vì rét cóng, cho nên tôi bèn thay trang phục sa mạc ngay ở trong xe. Lúc mặc vào tôi cũng rất bất ngờ, phát hiện ra trên thắt lưng của bộ đồ, thế nào lại cũng có dãy số 02200059.

Tôi bèn hỏi tay người Caucasus đây là dãy số gì, thì anh ta bảo đó là số mã vạch của công ty bọn họ. Ông chủ của họ rất say mê con số này, nghe đâu nó cũng được dịch ra từ phần sách lụa Chiến Quốc.

Tôi trong lòng ngập tràn kinh ngạc, nhớ tới mật mã trên chiếc hộp trong Thất Tinh Lỗ Vương, tự nhủ thầm rằng có phải mấy chữ số này có ý nghĩa gì đặc biệt không?

Hai ngày sau đó, chúng tôi đi sâu vào trong lòng sa mạc. Land Rover tốc độ cực kỳ cao, chỉ với thời gian hai ngày này, chúng tôi đã vào đến lòng chảo Sài Đạt Mộc.

Người bên A Ninh rất cởi mở. Mấy lần hạ trại, những người trước đây từng ở Cát Lâm với tôi sinh hoạt cùng nhau rất ổn, những người khác cũng bắt đầu làm quen với tôi. Tính cách của tôi như vậy, cũng tương đối dễ ở chung với người khác. Thế cho nên ít nhất cũng có một điểm tốt, là tôi cũng không cần cả ngày đối diện với cái bản mặt lạnh tanh vô cảm của Muộn Du Bình. Mà hắn hình như căn bản cũng chả thèm để ý gì đến tôi.

Điều này kỳ thực cũng có chút khác thường. Bởi vì trong những lần tiếp xúc trước đây, Muộn Du Bình tuy vẫn không dễ ở chung như vậy, nhưng cũng không đến nỗi có cảm giác xa lạ như lúc này. Tôi cứ thấy như hắn đang kiêng dè điều gì đó. Ngược lại, cái gã Kính Râm thì hình như rất hứng thú với tôi, cứ tìm tôi nói chuyện.

Sau khi xe tiến vào sa mạc, rất nhanh chóng rời xa đường quốc lộ. Định Chủ Trác Mã bắt đầu dẫn đường. Bà đi cùng người con dâu và một cậu trai, ngồi cùng một xe A Ninh, dẫn đầu cả đoàn. Tôi cũng không biết tình hình của bọn họ, chỉ biết là từ lúc bà cụ nọ dẫn đường, đường xe chạy bắt đầu trở nên khó đi, chẳng phải bãi đá dăm thì cũng là lòng sông cạn. Ngay lập tức, trong đội hình tiếng oán than dậy đất.

Định Chủ Trác Mã giải thích rằng muốn đến cửa núi năm đó bà nhìn thấy, thì đầu tiên phải tìm được một cái thôn. Hành trình của bọn họ năm đó bắt đầu chính từ cái thôn kia. Ngựa và lạc đà của văn cẩm đều mua ở trong thôn. Giờ có khả năng thôn này đã bị bỏ hoang, nhưng chắc vẫn còn tàn tích, tìm được nó thì mói có thể tiến hành bước tiếp theo.

Trí nhớ của bà cụ vẫn tương đối tốt. Quả thật đến lúc nhá nhem tối thì chúng tôi tới được thôn nhỏ tên là "Lan Thác". Trong thôn vậy mà vẫn có người ở, bốn hộ gia đình, nhân số ba mươi mấy người.

Phát hiện này khiến chúng tôi mừng phát điên. Thứ nhất là khả năng của bà cụ đã được chứng minh, hai là mọi chuyện diễn biến thuận lợi. Vả lại sau một thời gian dài tiến vào sa mạc, thấy một chỗ có đông người tụ tập thì luôn đặc biệt vui vẻ. Lúc ấy, sắc trời đã tối, chúng tôi liền quyết định hạ trại tại thôn này.

Đáng tiếc một điều, lúc vào thôn cũng là lúc xảy ra sự cố. Một chiếc xe bị lật nhào xuống rãnh phong thực, người trên xe không việc gì nhưng xe lại bị hỏng. Lúc này chúng tôi đã cách quốc lộ gần nhất một khoảng tương đối xa, không thể có được bất cứ sự trợ giúp nào. Điều này có nghĩa là phải để một xe khác ở lại hỗ trợ.

Sau sự kiện này, A Ninh bắt đầu để lộ tâm sự nặng nề. Đêm hôm đó chúng tôi nghỉ ngơi bên chiếc xe hỏng nọ, A Ninh bèn nói với chúng tôi về sự lo lắng của mình. Cô nàng có phần lo ngại, vì mặc dù đã chuẩn bị xe việt dã hạng nhất, nhưng điều kiện xung quanh thật sự là quá ác liệt đi. Nếu không thể tìm được cửa núi trong thời gian ngắn thì mấy con xe này nhất định sẽ hỏng dần từng chiếc. Có những hỏng hóc mang vào xưởng sửa chữa thì chỉ là chuyện nhỏ nhưng tại đây thì vẫn khiến xe tê liệt như thường.

Mà bọn họ sẽ tiến vào càng sâu trong lòng chảo. Xe bị bỏ lại cùng với người trên xe có thể vì không được cứu viện đúng lúc mà phải chịu nguy hiểm bên trong sa mạc.

Xe và lạc đà rốt cuộc khác nhau ở chỗ đó. Vết thương của lạc đà sẽ tự lành, vết thương nhỏ thì cũng không ảnh hưởng đến việc đi tiếp, nhưng những chiếc xe công nghệ cao này chỉ cần xảy ra chút sự cố, liền trở nên yếu ớt đến đau lòng người ta. Mấy cỗ xe này rốt cuộc cũng chỉ là xe dân dụng, không nồi đồng cối đá như xe quân dụng được.

Thế nhưng đây cũng không phải là do A Ninh tính toán sai lầm, vì trong thời buổi hiện đại ngày nay thì không thể để một đội hình gần 50 người cưỡi lạc đà tiến vào Sài Đạt Mộc được. Thứ nhất là vì không thể tìm được nhiều lạc đà như vậy trong một chốc một lát. Năm mươi con người, lại còn thêm số lạc đà để thồ hành lý và và lạc đà dự bị nữa, khả năng phải cần đến gần trăm con. Đội lạc đà vĩ đại đến vậy quá là bắt mắt, chắc chắn sẽ bị chính phủ chú ý.

Vị kỹ sư cơ khí theo đoàn thì nói với cô nàng rằng không cần phải lo bò trắng răng như vậy. Với tốc độ của Land Rover thì lòng chảo Sài Đạt Mộc cũng không phải là nơi ghê gớm gì. Cách đây hai mươi năm, Sài Đạt Mộc còn có thể giống với sa mạc Taklimakan, là biển chết chóc ai ai cũng sợ. Nhưng giờ thì chỉ cần mất chừng mười mấy tiếng đồng hồ là có thể vượt qua nửa khu vực đã được khai phá, trong đó có rất nhiều căn cứ thăm dò, khu công nghiệp, thế nên cũng không cần phải lo lắng như vậy.

Tuy nhiên câu nói này lập tức bị cậu cháu của Định Chủ Trác Mã bác bỏ. Anh chàng tên là Trát Tây này bảo rằng chúng tôi đã quá tin tưởng vào sức mạnh của máy móc rồi. Sài Đạt Mộc tuy rằng đã bị chinh phục, nhưng vùng an toàn chỉ giới hạn trong những chỗ mà mạng lưới đường quốc lộ bao quát được, cùng lắm chỉ chiếm khoảng 2% diện tích lòng chảo, khu vực 98% diện tích còn lại toàn bộ đều là sa mạc, đầm lầy, mỏ muối lộ thiên. Chúng ta đây có hơn chục chiếc xe với không đầy năm chục con người, đối với vùng đất ăn tươi nuốt sống sinh mạng cả mấy ngàn mấy vạn năm nay mà nói, thì chả là cái thá gì.

Cậu ta nói rằng cứ coi như đi dọc theo tuyến đường du lịch được tính là ít nguy hiểm nhất, hàng năm vẫn có người chết vì lạc đường hoặc gặp tai nạn, chưa kể chúng ta hiện tại còn đang chuẩn bị đi vào khu vực không người.

Cậu ta còn bảo, những người trước đây anh ta gặp đều là khách du lịch, đặt mục tiêu là đi xuyên qua lòng chảo. Những người này sẽ không ở lại trong lòng chảo quá hai ngày, mà mục đích của chúng tôi bây giờ lại là tìm kiếm bên trong lòng chảo. Nói vậy nghĩa là lộ trình của chúng tôi không có điểm cuối, đi vòng vèo trong sa mạc như thế là chuyện kiêng kỵ lớn nhất của dân du mục địa phương, cho nên lo lắng củA Ninh tiểu thư không phải là không có lí. Mọi chuyện cứ nên cẩn thận thì tốt hơn.

Lời nói của Trát Tây khiến chúng tôi im bặt. A Ninh suy nghĩ rất lâu rồi hỏi Trát Tây: "Vậy anh có đề xuất gì cho chúng tôi không?"

Trát Tây lắc đầu đáp: nếu các vị đã muốn vào Sài Đạt Mộc, vậy thì đừng có mạo hiểm treo tính mạng lơ lửng trên dây. Từ xưa đến nay vẫn là như thế.

Cách nói của Trát Tây tóm lại vẫn có chút cảm giác dọa nạt người nghe. Lúc trước tôi từng nghe người ta bảo rằng Trát Tây cực kỳ phẫn nộ khi bà cậu ta đồng ý dẫn đường cho chúng tôi. Cậu ta cho rằng chuyện này quá sức nguy hiểm, mà nhóm A Ninh còn dùng tiền tài để thuyết phục bà nội anh ta, là một loại nghiệp chướng. Chúng tôi đã mang hiểm nguy và tội nghiệt đổ lên đầu bà nội anh ta. Thế nhưng cụ bà Định Chủ Trác Mã kia thì ngược lại, rất kiên quyết. Trong gia đình người dân tộc Tạng, địa vị của bà nội là cực kỳ cao, Trát Tây chẳng còn cách nào, đành phải đi theo trông chừng. Bởi thế nên suốt dọc đường anh ta căn bản chưa hề tỏ ra hòa nhã với chúng tôi, cũng chẳng nói được câu nào tử tế.

Dù rằng như thế, nhưng ở trong cái thôn giữa sa mạc chỉ lèo tèo vài nóc nhà gạch mộc thấp tè này, giữa đêm sa mạc gió lạnh thổi buốt xương, nhìn đống lửa bập bùng, đầu lại ngẫm nghĩ đếm khoảng cách giữa chúng tôi và thế giới văn minh bây giờ, tôi vẫn thấy không rét mà run.

Cậu ta nói xong rồi, chúng tôi cũng chẳng còn hào hứng bàn soạn thêm gì nữa. Mấy con người ngồi im lìm bên đống lửa một hồi lâu, rồi lần lượt lục tục chui vào nghỉ ngơi trong túi ngủ. Sáng mai chúng tôi sẽ xuất phát, A Ninh không cho dựng lều bạt, mà toàn trải túi ngủ ngoài trời. Nơi này buổi tối nhiệt độ có khi sẽ xuống dưới 0, nên chúng tôi đều nấp phía sau những gờ đất cao, kề sát vào đống lửa để sưởi ấm.

Nằm xuống chỗ đó, tôi lại cảm thấy có rất nhiều người cũng không ngủ được. Bốn bề là tiếng gió mang theo những lời rì rầm nhỏ to. Cũng khó trách. Đây có lẽ là nơi cuối cùng có tên trên bản đồ trước khi tiến vào Sài Đạt Mộc. Loại chuyện nhỏ này, lão luyện rồi thì dĩ nhiên chẳng thèm quan tâm nữa, nhưng trong đội hình có một bộ phận lớn là người địa phương được mời tới, vào lúc này đương nhên sẽ có chút kích động.

Tôi cũng chẳng biết mình đã lão luyện rồi hay chỉ là lính mới, chỉ giương mắt ngắm trời, nhận ra bầu trời ở đây gần mặt đất quá, những chòm sao nhìn cũng rõ hơn nhiều. Tôi sống ở phương Nam, thành người lớn rồi, cũng đã lâu không còn dịp thấy cảnh sao giăng kín trời. Giờ này nhìn dòng sông Ngân rực rỡ vắt ngang trời rõ ràng thế kia, không khỏi hết cả buồn ngủ.

Có điều, đường dài bôn ba bao giờ cũng có tác dụng. Sau một hồi ồn ào, những âm thanh bốn phía cũng dần lắng xuống,

Nhóm A Ninh có cắt người gác đêm. Vì người đông nên mấy việc khổ sai này chủ yếu là do những người bản xứ được thuê tới đảm nhiệm, vậy nên cũng không đến lượt chúng tôi. Tuy nhiên vì nơi này vẫn còn trong thôn xóm nên cũng không phải cảnh giác quá mức. Trát Tây cũng đã nói chỉ có ở gần Khả Khả Tây Lý mới có thể xuất hiện dã thú cỡ lớn. Còn ở đây cây cỏ thưa thớt đến nỗi chuột cũng không thèm mò tới, nói gì đến dã thú ăn thịt, cho nên tôi cũng không nghe thấy tiếng người gác đêm tán dóc với nhau, xem chừng chắc họ cũng đã ngủ rồi. Trong tiếng gió tôi mơ hồ nghe thấy vài tiếng động vật kêu, nhưng tôi cũng không để ý mấy. Chúng tôi ngủ ở chỗ chính giữa nhất trong cả khu tập kết, lỡ có bị ăn thịt, thì cũng chẳng tới lượt chúng tôi.

Tôi vừa nghĩ vậy vừa ngắm nhìn trời đêm. Cũng chẳng biết đã bao lâu, vào lúc tôi cũng buồn ngủ, đang mơ mơ màng màng thì đột nhiên cảm thấy như có người tới trước mặt mình. Tôi sợ run cả người, tỉnh lại thì thấy hóa ra là Trát Tây.

Tôi bị cậu ta dọa cho hết hồn, vội ngồi dậy định nói thì cậu ta đã ngồi xuống bịt miệng tôi lại, nhỏ giọng nói: "Đừng lên tiếng. Theo tôi. Bà tôi muốn gặp anh."

________________________

1. Sng phong thc: nguyên văn là đa hình Nhã Đan: mt loi đa hình phong thc đin hình - đa hình b bào mòn bi gió - còn được gi là rãnh phong thc hoc sng phong thc."Nhã Đan" là tiếng ca dân tc Duy Ngô Nhĩ - mt dân tc thiu s vùng Tân Cương TQ, ý ch nhng gò đt bt ng ni lên.

2. Sa mc Taklamakan (Takelamagan Shamo, 塔克拉玛干沙漠, Tháp Khc Lp Mã Can sa mc), cũng gi là Taklimakan, là mt sa mc ti Trung Á, trong khu vc thuc Khu t tr dân tc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương ca Cng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nó có ranh gii là dãy núi Côn Lôn phía nam, dãy núi Pamir và Thiên Sơn phía tây và phía bc.

Taklamakan được biết đến như là mt trong các sa mc ln nht trên thế gii, đng hàng th 15 v kích thước trong s các sa mc ln nht không vùng cc ca thế gii. Nó bao ph mt din tích 270.000 km² ca lòng cho Tarim, dài khong 1.000 km và rng khong 400 km. rìa phía bc và phía nam ca sa mc này là hai nhánh ca Con đường tơ la do các l khách đã tìm kiếm ra đ tránh vùng đt hoang khô cn - theo wikipedia.


Chương 47. Li nhn ca Văn Cm

Định Chủ Trác Mã muốn gặp tôi á?

Tôi nhìn Trát Tây ngơ ngác chẳng hiểu gì cả, bởi lẽ tôi với cụ bà kia đã nói chuyện với nhau được câu nào đâu, cũng chưa hề giao lưu tiếp xúc gì cả. Thậm chí tôi cũng chả mấy khi nhìn thấy bà, sao tự dưng bà ấy lại muốn gặp tôi được?

Thế nhưng vẻ mặt của Trát Tây rất nghiêm túc, bừng bừng khí thế không cho phép một lời phản đối nào, cứ như thể bà nội cậu ta muốn gặp anh, anh mà dám không đi gặp thì chính là tội chết vậy. Cậu ta nhìn tôi có chút quái quái, rồi khẽ nói: "Xin anh hãy đi theo tôi, có chuyện rất quan trọng."

Tôi ngẩn ra một chút, nhìn vẻ mặt của cậu ta mà cảm thấy không thể nào cự tuyệt nổi, cuối cùng không còn cách nào khác, tôi đành gật đầu, đứng lên. Cậu ta liền quay người, ý bảo tôi đi theo cậu ta.

Nơi Định Chủ Trác Mã nghỉ ngơi cách nơi ở của chúng tôi rất xa, cách nguyên một bãi đậu xe, chắc là chê bọn tôi ầm ĩ quá đây mà. Tôi đi chừng hai trăm mét mới đến được chỗ đống lửa trại của bọn họ. Tôi thấy Định Chủ Trác Mã và cô con dâu vẫn chưa đi ngủ, bọn họ đang ngồi bên đống lửa, trên mặt đất trải một tấm chăn chiên rất dày, lửa cháy rất vượng. Ngoài hai người họ còn có một người nữa cũng đang ngồi trên tấm chăn chiên bên đống lửa. Tôi tiến lại gần, vừa nhìn liền lấy làm kinh ngạc: hóa ra đó không phải ai xa lạ mà chính là Muộn Du Bình!

Muộn Du Bình quay lưng về phía tôi nên tôi không thể nhìn thấy vẻ mặt hắn ta, thế nhưng dưới ánh lửa bập bùng, tôi lại nhìn thấy nét mặt của Định Chủ Trác Mã toát lên một vẻ âm hiểm. Tôi chẳng hiểu ra làm sao, bèn đến bên đống lửa, bụng bảo dạ thật quái lạ quá đi mất, bà cụ này đêm hôm tự dưng lại lén tìm bọn tôi tới để làm gì nhỉ?

Trát Tây khoát tay ra hiệu mời tôi ngồi xuống. Cô con dâu của bà cụ liền bưng lên cho tôi một tách trà bơ, tôi liền cảm ơn rồi nhận lấy. Liếc mắt nhìn sang Muộn Du Bình bên cạnh, tôi phát hiện thấy hắn cũng đang liếc mắt nhìn tôi, ánh mắt dường như lóe lên một tia ngạc nhiên.

Sau đó, Trát Tây thoáng nhìn về hướng lều trại sau lưng bọn tôi, dùng tiếng Tạng khẽ nói thầm gì đó với Định Chủ Trác Mã. Bà cụ liền gật đầu, rồi đột nhiên mở miệng nói tiếng phổ thông với chúng tôi, khẩu âm rất nặng: "Ở chỗ ta có một lời nhắn, gửi cho hai anh."

Tôi với Muộn Du Bình không nói lời nào. Kỳ thực, tôi có hơi ù ù cạc cạc, tự nhủ không biết là lời nhắn của ai đây nhỉ? Có điều, Muộn Du Bình chả có biểu hiện gì cả, chỉ cúi đầu uống trà. Tôi cảm thấy không tiện hỏi cho lắm, thôi cứ ngồi nghe là được.

Định Chủ Trác Mã liếc nhìn chúng tôi, lại nói: "Người nhờ ta truyền lời nhắn này, là Trần Văn Cẩm, ta tin hai anh đều quen cả. Cô ấy nhờ ta truyền lại cho các anh một câu."

Tôi vừa nghe xong liền ngây ngẩn cả người. Mới đầu còn tưởng mình nghe lộn, vừa định hỏi thì Định Chủ Trác Mã lại nói tiếp: "Lúc Trần Văn Cẩm nhờ ta gửi băng ghi hình thì cũng đã dự liệu đến tình huống này rồi. Nếu các anh dựa theo nội dung cuốn sổ tay mà tìm vào Tháp Mộc Đà, vậy thì, cô ấy sẽ để ta truyền lại lời nhắn cho các anh rằng, cô ấy đang ở điểm đến chờ các anh trong một thời gian đấy. Chẳng qua," Trát Tây cầm đồng hồ đeo tay giơ ra trước mặt Định Chủ Trác Mã. Bà nhìn thoáng qua, nói tiếp, "Thời gian của các anh không còn nhiều lắm đâu. Nếu như trong vòng mười ngày mà cô ấy không chờ được các anh, cô ấy sẽ tự đi vào trong. Các anh liệu mà mau mau đi."

Tôi ngu cả người ra, tự hỏi thế này là thế nào đây? Điểm đến? Vắn Cẩm đang ở Tháp Mộc Đà chờ bọn tôi? Cái này... Não tôi lập tức tắc tị, quay ra liếc Muộn Du Bình, trời ơi khủng khiếp quá, khuôn mặt Muộn Du Bình cũng đầy vẻ kinh ngạc!

Chẳng qua cũng chỉ có mấy giây sau, vẻ mặt của hắn lại trở về bình thường. Hắn ngẩng đầu lên nhìn Định Chủ Trác Mã, hỏi: "Cô ấy nói những lời này với bà lúc nào?"

Định Chủ Trác Mã lạnh lùng đáp: "Ta chỉ truyền lời nhắn, còn cái khác, hết thảy đều không biết, mà các anh cũng đừng hỏi, ở đây, tai vách mạch rừng." Lời vừa dứt, tất cả chúng tôi đều theo phản xạ quay ra nhìn quanh quất.

Muộn Du Bình hơi nhíu mày, lại hỏi: "Cô ấy còn khỏe không?"

Định Chủ Trác Mã nở một nụ cười hơi quái dị: "Nếu anh tới kịp, khắc sẽ biết." Nói đoạn, bà khoát tay, cô con dâu bên cạnh liền đỡ bà đứng lên, đi về phía lều của mình. Xem chừng là muốn trở về đây.

Tôi đứng lên, định ngăn bà ấy thì bị Trát Tây cản lại. Cậu ta lắc đầu, ý nói vô ích thôi.

Có điều, đúng lúc này, Định Chủ Trác Mã lại quay đầu, nói với bọn tôi: "Phải rồi, còn có một câu nữa, ta quên mất không truyền đạt lại."

Chúng tôi đều ngẩng đầu lên nhìn bà, bà liền nói: "Cô ấy còn muốn ta nói cho các anh rằng, "nó", đang ở ngay bên cạnh các anh, các anh phải cẩn thận."

Nói đoạn, bà lại tiếp tục xoay người vào trong lều của mình, để lại tôi và Muộn Du Bình ngẩn người ngồi trước đống lửa trại.

Tôi nhìn Muộn Du Bình, nhưng hắn lại đang nhìn lửa, chẳng biết đang nghĩ cái gì. Tôi liền hỏi hắn: "Rốt cuộc thế này là thế nào vậy? Sao lời nhắn này lại dành cho hai người chúng ta?"

Hắn không trả lời, chỉ nhắm hai mắt lại, rồi định đứng lên.

Tôi thấy hắn thái độ như vậy, trong nháy mắt hàng trăm câu hỏi lại xông thẳng lên não, tôi có chút không thể kiềm chế nổi nữa, lập tức đè hắn ta lại, gắt: "Anh không được đi!"

Hắn quay đầu, bình thản nhìn tôi, rồi cũng không đi nữa mà ngồi xuống, nhìn tôi.

Hành vi của tên này rất khác thường, tôi còn tưởng hắn sẽ mặc kệ mà nghênh ngang bỏ đi chứ. Giờ ngay bản thân tôi cũng ngẩn ra một lúc, không biết nói gì cho phải. Hắn nhìn tôi, hỏi: "Cậu có chuyện gì?"

Tôi nghe xong, lửa giận trong bụng cháy càng lớn, bèn nói: "Tôi có chuyện muốn hỏi anh, anh không được trốn tránh nữa, anh nhất định phải nói cho tôi biết."

Hắn quay lại, nhìn lửa một lúc, nói: "Tôi sẽ không trả lời."

Tôi lập tức nổi cơn tam bành, gắt lên: "Cái đệch mẹ vì sao chứ?? Anh có cái gì không thể nói ra? Anh đùa giỡn bọn tôi một hồi, rồi ngay cả một cái lý do cũng không nhả ra được, anh coi bọn tôi ra cái gì hả?"

Hắn ta bèn quay ngoắt đầu lại nhìn tôi, sắc mặt trở nên vô cùng lạnh lẽo: "Cậu không cảm thấy mình rất kỳ lạ à? Chuyện của tôi, vì sao phải nói cho cậu biết?"

Tôi lập tức nghẹn lời, ớ một tiếng quanh co. Nghĩ bụng thì đúng vậy thật, đây là chuyện của hắn, hắn hoàn toàn chẳng việc gì phải kể cho tôi.

Bầu không khí trở nên rất ngượng nghịu, tôi cũng không biết phải nói sao cho phải.

Im lặng một hồi lâu, Muộn Du Bình uống một ngụm trà bơ đã nguội lạnh, bỗng nói với tôi: "Ngô Tà, cậu theo đến đây để làm gì? Kỳ thực, cậu không nên cuốn vào chuyện này, chú Ba cậu đã vì cậu mà làm không ít chuyện rồi. Vũng bùn này, không phải thứ cậu lội được."

Tôi bỗng ngẩn người một lúc, vô thức nhẩm đếm. Ba mươi chín chữ, hắn thế mà nhả ra được một câu dài như thế, thật quá hiếm có. Tôi nhìn vẻ mặt của hắn một lúc, nhưng cũng không nhìn ra được cái gì.

"Tôi cũng đâu có muốn thế. Thực ra yêu cầu của tôi đơn giản lắm mà, tôi chỉ cần biết chuyện này là thế nào thôi, tôi liền thỏa mãn ngay, thế nhưng hết lần này đến lần khác mọi người đều không cho tôi biết, tôi không muốn lội vũng bùn này cũng không được."

Muộn Du Bình nhìn tôi nói: "Vậy cậu có từng nghĩ tới, vì sao bọn họ không cho cậu biết chân tướng sự việc này không?"

Tôi nhìn ánh mắt Muộn Du Bình, bỗng phát hiện ra hắn đang nói chuyện với tôi hết sức nghiêm túc, không khỏi giật mình, thầm nhủ cái tên này uống lộn thuốc rồi chắc.

Chẳng qua nghĩ thì nghĩ thế, chứ chính lúc này đây có lẽ hắn ta có thể nói ra cho tôi được chút gì đây. Tôi lập tức nghiêm mặt lại, lắc đầu: "Chưa từng nghĩ tới, cũng chẳng biết phải nghĩ đi đâu nữa."

Hắn thản nhiên nói: "Kỳ thực, có đôi khi nói dối một người, chính là vì muốn bảo vệ người đó. Có một số sự thật, có thể người đó không tài nào tiếp nhận nổi."

"Có tiếp nhận nổi hay không phải do chính người đó quyết định." Tôi nói, "Có lẽ, người đó không muốn anh bảo vệ, người đó lại muốn chết một cách sảng khoái thì sao? Anh có hiểu cái cảm giác đau khổ khi mà mình không biết một cái gì hết không hả?"

Muộn Du Bình trầm mặc. Hai người im lặng một lúc, rồi hắn nói với tôi: "Tôi hiểu." Sau đó, hắn nhìn tôi, "Hơn nữa, còn hiểu rõ hơn cậu. Với tôi, những chuyện tôi muốn biết, hẵng còn nhiều hơn cậu rất nhiều. Thế nhưng, tôi không giống cậu, có người để mà túm lấy hỏi."

Tôi liền nhớ ra, hắn từng bị mất đi trí nhớ. Tự dưng tôi muốn tát cho mình một cái lật mặt, tự nhủ bảo so bì cái gì với hắn thì so, ai đời lại đi so bì cái này.

Hắn lại nói tiếp: "Tôi là một người không có quá khứ lẫn tương lai, tất cả những việc tôi làm, chỉ là muốn tìm mối liên hệ giữa tôi với thế giới này. Tôi từ đâu tới, vì sao tôi lại ở đây?" Hắn nhìn tay của mình, thản nhiên nói, "Cậu có thể tưởng tượng được không, một người như tôi vậy, nếu bỗng biến mất trên thế giới này, sẽ không một ai phát hiện ra, như thể tôi vốn chưa bao giờ tồn tại trên đời này vậy, không còn một chút dấu vết nào cả? Đôi khi tôi nhìn vào trong gương, thường thấy hoài nghi, liệu tôi có đang tồn tại thật hay không, hay chỉ là ảo ảnh của một con người?"

Tôi nói không nên lời, suy nghĩ một lúc rồi mới đáp: "Không đến mức cường điệu như anh nói thế đâu. Nếu như anh biến mất, chí ít vẫn còn tôi phát hiện ra."

Hắn lắc đầu, không biết là có ý gì, vừa đứng lên vừa nói với tôi: "Chuyện của tôi, có lẽ đến một ngày nào đó tôi biết được đáp án, tôi sẽ kể cho cậu nghe. Thế nhưng chuyện của cậu, túm tôi hỏi cũng không có đáp án. Hiện giờ, tất cả đối với tôi mà nói, cũng đều là bí ẩn cả. Tôi nghĩ, những câu đố của cậu đã quá đủ rồi, không cần nhiều hơn nữa." Nói rồi liền quay bước đi về.

"Ít nhất anh có thể nói cho tôi biết một việc được không?" Tôi kêu lên.

Hắn dừng lại, quay đầu, nhìn tôi.

"Vì sao anh lại trà trộn đi vào bên trong cửa Thanh đồng?" Tôi hỏi.

Hắn nghe xong, suy nghĩ một chút, nói: "Tôi chỉ là làm lại việc mà Uông Tàng Hải năm xưa đã làm."

"Vậy anh ở trong đó đã thấy cái gì?" Tôi hỏi, "Đằng sau cánh cửa khổng lồ đó, rốt cuộc là cái gì?"

Hắn quay đầu, phủi phủi những hạt cái dính trên người, nói với tôi: "Ở trong đó, tôi đã thấy kết cục. Kết cục của tất cả vạn vật."

"Kết cục?" Tôi chả hiểu cái mô tê gì cả, còn muốn hỏi thêm. Hắn liền nhìn tôi khẽ mỉm cười, xua tay ý bảo tôi đừng hỏi, chỉ nói với tôi rằng: "Ngoài ra, tôi là người đứng ở bên cậu." Nói rồi liền thong thả bước đi xa, chỉ còn lại một mình tôi. Tôi gục xuống cát, cảm thấy đau đầu vô cùng.

Chương 48. Tiếp tc xut phát.

Sáng sớm ngày hôm sau, đoàn xe lại tiếp tục xuất phát.

Rời khỏi thôn nhỏ tên Lan Thác, đoàn xe tiếp tục đi vào sâu trong hoang mạc Gobi, chính là khu vực không có bất cứ cái gì trên bản đồ. Nói cách khác, nơi đấy không có đến cả một con đường nhỏ nhất có xe chạy qua lại, bên dưới bánh xe kia là mặt đất mà vài chục năm, thậm chí trên trăm năm, cũng không hề có dấu chân người. Tình trạng đường xá, có lẽ đúng hơn là tình trạng địa hình càng thêm hỏng bét, cái gọi là xe chạy việt dã mà đi trên kiểu đường này cũng phải lo nơm nớp, bởi vì anh sẽ chẳng biết bên dưới lớp cát kia liệu có vùi đá tảng hay hố sâu hay không. Mà Định Chủ Trác Mã còn phải dựa vào đá phong hóa và lũng sông mới có thể tìm được các dấu hiệu của tuyến đường ngày trước, điều này khiến đoàn xe buộc phải đi trên con sườn dốc dựa sát vào đá núi.

Mặt trời chói chang giữa bầu không, cộng thêm dọc đường xóc nảy vô cùng, khiến tinh thần hăng hái khi mới bắt đầu của mọi người hầu như bị dập tắt hết, từng người từng người một bị mặt trời hun nóng đến héo quắt cả người. Mới đầu còn có người rồ ga phóng cho thật nhanh, về sau tất cả đều ngoan ngoãn xếp thành hàng mà chạy hết.

Trong các hoạt động thám hiểm và khảo sát địa chất, thực ra, thám hiểm sa mạc hoàn toàn khác với thám hiểm rừng rậm hay thám hiểm đáy biển, dưới đáy biển và trong rừng rậm đều có một lượng lớn những tài nguyên có thể tận dụng được, nói cách khác, chỉ cần anh có đủ các kỹ năng sinh tồn thì anh có thể sinh tồn ở hai nơi này rất lâu. Nhưng ở sa mạc thì hoàn toàn ngược lại. Ở đây, chỉ có toàn cát là cát, cho dù anh có ba đầu sáu tay đến mấy cũng không thể nào một mình tìm được thứ gì đó có thể giúp anh sinh tồn ở giữa sa mạc nổi. Đây chính là nguyên nhân vì sao sa mạc Gobi được gọi là "vùng đất tử thần" vậy. Bọn A Ninh là lần đầu tiên đi vào một nơi như thế, kinh nghiệm không có, vỡ mộng kiểu này là chuyện đương nhiên.

Tôi cũng bị phơi nắng đến mức ngây ngất cả người, nhìn cát vàng cuồn cuộn bên ngoài, bắt đầu có ý định rút lui. Thế nhưng lời nhắn cho tôi với Muộn Du Bình của Định Chủ Trác Mã hôm qua khiến tôi phải ép mình hạ quyết tâm. Nhớ đến chuyện xảy ra đêm qua, tôi cảm thấy một áp lực vô hình đang đè lên mình.

"Nó" đang ở ngay trong số các anh.

Nó là ai?

Trong cuốn sổ tay của Văn Cẩm đã rất nhiều lần đề cập đến việc phải liên tục trốn tránh khỏi "nó" trong suốt hai mươi năm, cái "nó" này rốt cục là cái gì? Mà điểm khiến tôi lưu ý chính là, vì sao phải là "nó", mà không phải "hắn ta/ cô ta"? Lẽ nào cái "nó" đang ở ngay trong số chúng tôi đây, lại chẳng phải là người? Suy đoán này thực sự khiến người ta cảm thấy khó chịu.

Mới bắt đầu tuyến đường đi vào khu vực không người qua lại, chúng tôi men theo một con sông cạn mà đi. Hóa ra, bồn địa Sài Đạt Mộc không phải là nơi những dòng sông tụ lại. Phần lớn các con sông đều bắt nguồn từ núi tuyết Đường Cổ Lạp và Côn Lôn, tuy nhiên, trong mười năm gần đây khí hậu đã có sự thay đổi, nhiều con sông lớn còn bị lấp dưới đất chứ đừng nó là những nhánh sông nhỏ. Chúng tôi đi dưới đáy con sông cạn, nhìn thấy nơi nơi toàn là những cây cỏ ngải cao quá nửa người, phỏng chừng ở đây đã hai ba năm rồi không có nước, thêm mấy năm nữa, con sông này rồi cũng sẽ biến mất.

Đi ba ngày nữa là chúng tôi sẽ đến cuối đường sông, hoang mạc sẽ biến thành sa mạc. Có điều, sa mạc ở bồn địa Sài Đạt Mộc cũng không lớn, chúng giống như những vệt màu loang lổ tô điểm thêm cho vùng trung tâm bồn địa. Bình thường người dân chăn nuôi không ai vào sa mạc cả, bởi trong đó có ma quỷ, hơn nữa, trong đó cũng chẳng có cỏ cho dê bò ăn. Định Chủ Trác Mã nói, bao quanh vùng sa mạc này chính là cửa ngọn núi muối mà năm đó bà đã chia tay với nhóm người Văn Cẩm. Chỗ đó có một tảng đá lớn rất kỳ lạ, trông giống như một cái cổng thành khổng lồ, rất dễ tìm. Tiếp tục đi vào trong sẽ là nơi tụ hội của sa mạc, hồ, hồ muối cạn, tất cả những thứ này nuốt chửng lẫn nhau, địa hình mỗi ngày một thay đổi, một người dẫn đường kinh nghiệm dày dạn nhất cũng không dám tiến vào đây.

Có điều bọn A Ninh mang theo GPS, vì vậy về điểm ấy bọn họ không lo lắng cho lắm, cho dù Trát Tây cứ một mực nhắc nhở bọn họ rằng vào đến trong máy móc đều sẽ bị hỏng hết. Nhất là dưới sự chênh lệch nhiệt độ trong ngày lên đến hơn năm mươi độ của hoang mạc Gobi.

Men theo đường sông cạn được hai ngày, có gió lớn nổi lên. Nếu là ở giữa sa mạc thì chắc chắn đây là loại gió chết người, nhưng may mà khi ở hoang mạc đây, nó chỉ có thể hất tung lên một đám cát vàng khổng lồ. Đoàn xe chúng tôi mỗi xe phải cách nhau lên đến trên trăm mét, tầm nhìn hầu như bằng không, vận tốc xe cũng hãm đến mức thấp nhất, lại phải chống chọi với gió giật suốt cả ngày, xe với lái xe đều đã đến cực hạn rồi. Cái gì cũng không nhìn thấy, cái gì cũng không nghe thấy, vô tuyến điện không liên lạc được, cũng không thể bật lên được nữa.

Anh chàng Caucasus vẫn chưa từ bỏ ý định, nhưng về sau đó, chúng tôi không thể nào xác định được xe có đang chạy hay không, hoặc là, xe đang chạy về hướng nào nữa rồi, cuối cùng anh ta đành phải dừng xe lại, quay đầu xe sang bên ngược chiều gió để tránh cát bụi theo gió luồn vào trong động cơ, chờ hết cơn gió lớn này.

Xe bị gió vần vò đến mức như đang lắc lư, cát đập vào cửa sổ nghe rầm rập, chúng tôi lại không biết giờ tình hình của các xe khác như thế nào, cái cảm giác lúc này thật khiếp sợ vô cùng. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, chỉ thấy một màu đen kịt túa ra, đủ biết rằng bên ngoài kia là cát bụi dày đặc chứ không phải là do trời sập tối, thế nhưng thật chẳng có cách nào xoay sở cả.

Ngồi trong xe chờ hơn mười phút, gió đột nhiên lại càng lớn hơn, tôi cảm thấy cả xe cứ rung lên bần bật, giống như là sắp bay lên trời vậy.

Anh chàng Caucasus vẻ mặt khiếp sợ, quay sang nhìn tôi nói: "Trước đây cậu có gặp phải tình huống như thế này không?"

Tôi thầm nghĩ gặp thế đếch nào được, nhìn vẻ mặt kinh hoàng của anh ta, đành phải an ủi, bảo rằng anh cứ yên tâm, sức nặng của một con Land Rover chắc chắn có thể bảo vệ chúng ta. Ấy thế mà lời vừa dứt, đột nhiên "Rầm" một tiếng cực lớn, hình như có vật gì đập vào chiếc Land Rover vậy, khiến cả cái xe hơi rung lên, còi báo động rú lên ầm ĩ.

Tôi cứ tưởng là xe đằng sau không nhìn thấy đường nên đâm phải chúng tôi, liền vội vàng dán mắt vào cửa kính xe. Anh người Caucasus cũng sáp đến gần mà nhìn.

Ở bên ngoài, màn đen lại càng thêm dày đặc, nhưng vì cát bụi là thể rắn, nên khi thổi qua một vật gì đó sẽ hiện lên khung hình đại khái, với lại nếu có xe cũng có thể nhìn thấy đèn xe từ xa.

Thế nhưng nhìn ra ngoài lại không thấy bất cứ ánh đèn xe nào, tôi đang lấy làm lạ, anh chàng Caucasus bỗng kêu lên một tiếng quái lạ, túm lấy tôi quay ra sau nhìn. Tôi quay đầu, nhìn thấy bên ngoài một cánh cửa sổ xe khác, trong màn cát bụi, không biết tự lúc nào, xuất hiện một cái bóng rất kỳ lạ.

Cái bóng đen ngoài cửa sổ xe mờ mờ không rõ, nhưng rõ ràng là ở rất gần cửa sổ xe, nheo mắt cố nhìn thì thấy đó hình như là một bóng người. Nhưng ở giữa cơn gió lớn như vậy sao lại có người ở bên ngoài, vậy có khác gì tự sát đâu?

Chúng tôi còn chưa kịp kinh ngạc, cái bóng liền di chuyển, dường như đang sờ sờ cửa sổ xe muốn tìm cách để mở ra. Có điều Land Rover rất kín, hắn ta sờ soạng cả ngày giời cũng không tìm được khe nào mà cậy, sau đó, chúng tôi liền thấy một khuôn mặt dán sát lên kính cửa xe. Đèn trong xe chiếu rõ thấy kính chắn gió của hắn ta.

Tôi lập tức nhận ra đó là loại kính chắn gió mà bọn A Ninh phân phát, bấy giờ mới thở phào nhẹ nhõm, tự nhủ cái thằng phải gió này là đứa nào, gió lớn vậy tự dưng xuống xe làm cái khỉ gì không biết? Chẳng lẽ chính là xe của hắn ta vừa đâm phải xe chúng tôi?

Người ở ngoài cửa sổ cũng nhìn thấy bọn tôi trong xe, bắt đầu gõ gõ cửa sổ, chỉ vào cửa xe, hình như là muốn chúng tôi ra ngoài gấp. Tôi nhìn thời tiết bên ngoài, nghĩ bụng bố mày mặc xác!

Còn chưa nghĩ xong, bỗng ở cửa sổ xe bên kia cũng xuất hiện một bóng người đeo kính chắn gió, người này bật đèn, cũng gõ cửa sổ xe, cả hai đều gõ rất dồn dập.

Tôi bắt đầu cảm thấy không ổn, dường như là có chuyện gì đó xảy ra, có lẽ bọn họ muốn chúng tôi xuống xe giúp đỡ. Vì vậy, tôi cũng kiếm lấy một áo choàng và kính chắn gió, đeo lên, còn anh người Caucasus lấy ra hai cái đèn mở, bật sáng sẵn rồi đưa cho tôi.

Hai người bọn tôi hít một hơi thật sâu, gắng sức mở cửa xe. Trong nháy mắt, cát bụi liền thốc mạnh vào. Tôi tuy đã chuẩn bị sẵn rồi, nhưng vẫn bị gió đột ngột thốc cho bay trở lại vào trong xe, phải chèn chân ở cửa thì cửa xe mới không bị đóng sập lại. Tôi một lần nữa dùng hết sức bình sinh, cúi thấp đầu mới chui được được ra ngoài, được người ở ngoài đỡ lấy kéo ra. Còn anh chàng Caucasus bị ngã đập thẳng xuống đất luôn, tiếng chửi thề của anh lập tức bị gió tạt ra hơn mười mấy mét liền. Khắp bốn phía toàn là tiếng gió thổi lẫn tiếng hạt cát ma sát cứ thế đập vào màng nhĩ, thứ tiếng này nghe thì không quá vang, nhưng lại lấn át hết tất cả các âm thanh khác, bao gồm cả tiếng hít thở của mấy người chúng tôi.

Chân vừa chạm xuống hoang mạc, tôi liền cảm thấy có điểm gì không đúng, sao mặt đất lại cao lên thế nhỉ? Tôi gắng sức khom người lại để không bị gió thổi ngã, dùng đèn mỏ chiếu về phía chiếc xe của mình, vừa nhìn liền trợn ngược cả mắt: mẹ kiếp, phân nửa bánh xe thì ngập trong cát, thân xe thì vẹo đến ba mươi độ, bệ đặt chân của xe thì đã chìm sâu trong cát, hơn nữa, chiếc xe còn đang dần dần lún xuống, có lẽ ở đây có một hố cát chảy. Thảo nào khởi động xe mãi mà không đi được.

Không có xe, chúng tôi coi như xong đời. Tôi cuống quá, vội vàng muốn nhấc xe lên, nhưng khi vừa giẫm lên vùng cát sát mép xe thì dường như có một lực nào đó kéo chân tôi xuống, giống như một cái xoáy nước vậy, thế là tôi bèn vội vàng rút chân lên, lùi ra sau. Người vừa gõ cửa sổ chúng tôi thấy thế liền kéo tôi ra, dùng tay ra hiệu cho tôi một cách khó khăn, rằng xe này hết cách cứu rồi, chúng ta phải bỏ xe ở đây thôi, nếu không sẽ bị vùi trong cát.

Anh này che người rất kín, mồm miệng đều bị áo choàng che kín cả, tôi biết anh ta cùng lúc đó cũng đang nói rất to, nhưng tôi lại chẳng nghe thấy gì cả. Tôi không biết anh ta là ai, nhưng điều mà anh ta đang dùng động tác để biểu đạt kia quả là sự thực. Vì vậy, tôi bèn gật đầu, lại lấy tay ra hiệu hỏi xem anh ta đi đâu bây giờ? Anh ta liền chỉ vào thùng xe phía sau, bảo tôi lấy hết những đồ dùng được ra, sau đó, anh ta làm một động tác cả hai tay cùng vươn ra phía trước.

Động tác này có nghĩa là lặn xuống nước trong thủ ngữ, có ý là lục lọi, tìm kiếm. Xem ra còn rất nhiều xe nếu người ta không ra ngoài thì chắc chắn vẫn còn chưa biết xe mình đã sụt hố cát chảy, chúng tôi phải đi tìm họ để báo cho bọn họ biết, nếu không những chiếc Land Rover này sẽ trở thành những chiếc quan tài sắt thép trị giá trăm triệu của họ.

Tôi gật đầu với người kia, ra hiệu OK, rồi mở thùng xe lấy ra những trang thiết bị quan trọng. Tôi phải khom lưng suốt cứ như một tên gù mới hoàn thành cái công việc đơn giản này. Lúc ấy, thực ra hai tai tôi đã tê rần cả lên rồi, khắp xung quanh như thể không một tiếng động gì, tĩnh lặng vô cùng, cảm giác giống như đang xem một bộ phim câm, một bộ phim câm 3D.

Đóng thùng xe lại, tôi mới thấy trên cửa xe phía sau bị lõm hẳn xuống một vết, giống như bị một con quái vật khổng lồ đập cho một phát vậy. Tôi nhớ đến lần chấn động lúc nãy, liền dùng đèn mỏ chiếu khắp bốn phía xung quanh, nhưng không nhìn thấy cái gì cả, chỉ thấy bóng anh chàng người Caucasus đang giục tôi đi mau.

Tôi trấn định lại tinh thần, nghĩ bụng có lẽ đó chỉ là do một tảng đá bị gió thổi đập phải thôi, rồi co quắp người lại đi về phía sau theo mấy cái bóng người kia.

Đi được chừng mười mấy mét mà tôi cảm giác cứ như đã đi được tám mấy mét, hoặc có lẽ là còn xa hơn nữa, chúng tôi liền thấy đèn chiếc xe tiếp theo. Đầu xe này đã vểnh cả lên rồi. Chúng tôi đi tới, nhảy lên trên mui xe, thấy người trong xe đã chạy cả ra rồi. Chúng tôi lại đi về phía sau thêm hơn mười mét nữa mới tìm thấy bọn họ, có một người bị rơi mất kính chắn gió, cát bay đầy cả vào mắt, đau quá liền kêu tướng lên. Chúng tôi vây quanh người này làm thành một bức tường chắn gió, dùng khăn mặt che kín lấy mắt anh ta.

Chúng tôi đỡ anh ta đứng lên, tiếp tục đi. Rất nhanh sau đó lại tìm được một chiếc xe, trong xe có ba tên đang đánh bài. Bọn tôi nhảy chồm chồm trên nóc xe cả ngày trời mà mấy tên này vẫn chẳng thèm có phản ứng gì, cuối cùng, tôi phải dùng một tảng đá đập nứt kính cửa xe của bọn họ, lúc này, xe đã chìm một nửa rồi.

Sau khi đưa bọn họ ra ngoài, gió đã mạnh đến nỗi mấy hòn đá trên mặt đất cũng bị gió tốc lên, có mấy viên đá cứng đạn thỉnh thoảng lại bay xẹt qua trước mặt bọn tôi, bị đập trúng là xong đời. Có một người bị đá bay trúng vào kính chắn gió, mũi đầm đìa máu. Có người bèn dùng tay ra hiệu rằng thế này không xong rồi, đi lại bây giờ quá nguy hiểm, chúng tôi không còn cách nào khác đành tạm thời ngừng việc tìm kiếm, nằm sấp xuống tránh né trận mưa đá này.

Có mấy người lấy vài vật cứng rắn nào đó từ trong túi trang bị, tôi thì lấy ra một cái hộp cơm inox úp lên mặt, còn anh chàng Caucasus thì lấy ra một quyển Kinh thánh. Thế nhưng còn chưa kịp sắp xếp cái gì thì gió đã cuốn lấy lật tung trang sách ra, nhoáng cái tất cả trang giấy đều tướp ra thành giấy vụn rồi biến mất luôn, trong tay anh ta chỉ còn lại một cái bìa sách đen sì.

Tôi cười anh ta ha hả, gào tướng cả cổ họng lên: "Quyển sách của anh chắc chắn là sách lậu rồi!" Lời chưa dứt, một viên đá liệng thẳng vào cái hộp cơm của tôi, tóe lửa tứ phía. Cái hộp cơm vốn chỉ có tác dụng đựng cơm ăn thôi, cho nên chả mấy mà tôi đã không thể giữ nổi được nữa, cái hộp cơm liền văng mất tiêu.

Tôi sợ chết khiếp, nếu bị đá đập trúng đầu thì có mà máu phun tung tóe, tôi chỉ có thể ôm chặt đầu, áp sát mình vào mặt đất.

Lúc này, đột nhiên bốn phía sáng bừng lên, một tia chớp nóng rẫy bất chợt bay lên từ phía bên cạnh chúng tôi. Chúng tôi đều bị dọa cho khiếp vía, tôi nghĩ bụng ôi cái đệch, thứ gì mà nhanh đến vậy?! Tôi còn chưa kịp phản ứng, phía trước lại có ba tia chớp lóe lên, bay về hướng chúng tôi, vừa vặn sượt qua người bọn tôi. Liền đó tôi ngửi thấy một mùi quen thuộc, đó là mùi magie bị đốt cháy ở nhiệt độ cao. Tôi lập tức nhận ra đó là thứ gì: đạn tín hiệu.

Tôi không khỏi giận dữ, nhủ thầm không biết cái thằng phải gió nào, cái thằng con lợn nào lại bắn đạn tín hiệu trong cái thời tiết này, lại còn ở nơi đầu gió nữa hả? Sợ gió thổi không chết bọn tôi nên phải bắn phát cho cả đám chết cháy hả? Một quả cầu lửa nhiệt độ lên đến hàng nghìn độ C bắn đi với tốc độ 160km/h, trúng phát là tèo luôn.

Thế nhưng nghĩ lại, liền thấy không đúng lắm, nhóm người này đều là người đã qua huấn luyện đầy đủ, sao có thể làm xằng làm bậy được. Trong thám hiểm, bắn đạn tín hiệu là một phương thức liên lạc chỉ sử dụng trong những tình huống nguy cấp, bởi phạm vi chiếu sáng của nó rất rộng, tiêu hao nhiều đạn dược, bình thường chỉ trong tình huống vô cùng nguy hiểm hoặc đối tượng cần liên lạc cách quá xa thì mới sử dụng. Trong điều kiện tự nhiên ác liệt như bây giờ mà bọn họ lại sử dụng đạn tín hiệu, vậy chắc hẳn ở phía trước kia đã xảy ra chuyện gì rồi.

Tôi liếc mắt nhìn mọi người khắp xung quanh, bọn họ cũng nghĩ giống như tôi vậy. Tôi liền giơ tay ra hiệu, để ba người không bị thương đứng lên, đi đến chỗ đó xem có việc gì. Nếu người ta cần giúp đỡ hoặc có ai đó bị thương, không chừng sẽ giúp được một tay.

Tuy nhiên, đây không phải việc muốn làm là làm hay chủ nghĩa anh hùng cá nhân được, tôi vừa lóp ngóp đứng lên thì bị một viên đá bắn trúng vào vai, bọn tôi đều phải lấy ba lô chắn phía trước làm khiên, chỉnh lại la bàn, sau đó đi về phía có đạn tín hiệu bắn lên ban nãy. Đồng thời còn phải đề phòng nhỡ lại có đạn tín hiệu đột nhiên bắn tới.

Đi được một lúc, chúng tôi cũng không biết mình có đi lệch hướng hay không nữa, có điều, đi được chừng hơn trăm mét thì gặp được ba chiếc xe quây vào cùng một chỗ. Thế nhưng trong xe không hề có người, người đã bỏ đi từ lâu. Chúng tôi tìm khắp xung quanh mấy chiếc xe, cũng không thấy ai cả, vậy mà các trang thiết bị trong xe lại vẫn còn nguyên.

Xe đang bị lún hố cát, chúng tôi mở thùng xe, thầm nghĩ ít nhất thì cũng phải lấy hết mấy đồ cứu thương gì đó ra đã. Ngay khi đang định chui vào trong xe thì lại có ánh sáng đạn tín hiệu lóe lên, từ nơi cách chúng tôi rất xa. Ánh sáng vừa chợt lóe, chúng tôi nhận thấy nơi bắn đạn tín hiệu lại ở bên trái bọn tôi, cách đây cũng không đến nỗi quá xa. Xem ra chúng tôi quả thực là đã đi lệch hướng. Hoặc là người bắn đạn tín hiệu đã di chuyển.

Chúng tôi đeo trang bị lên lưng, tuy rằng đã mệt lắm rồi, nhưng gió cứ thổi thế này thì cũng không đến mức thổi ngã bọn tôi được, chúng tôi vẫn có thể bước đi một cách ổn định, đi về phía có đạn tín hiệu bắn ra. Đi mãi, đi mãi, chúng tôi bỗng kinh ngạc nhìn thấy, ở phía trước kia, trong cát bụi cuồn cuộn, xuất hiện một cái bóng hình khổng lồ.

Trong cơn cuồng phong, chúng tôi đều khom lưng, dìu lẫn nhau đi xuyên qua màn sương đặc toàn cát, nhìn cái bóng khổng lồ kia mà tất cả đều cảm thấy vô cùng bất ngờ, trong phút chốc liền quên mất có nên tiếp tục tiến bước hay không.

Anh chàng người Caucasus bên cạnh giơ tay ra hiệu, hỏi tôi đó là thứ gì vậy. Anh chàng này tư duy rất theo quán tính: anh ta đang ở Trung Quốc, mà tôi là người Trung Quốc, vậy hễ cứ ở Trung Quốc mà đụng phải cái gì thì phải chạy đi hỏi tôi mới được.

Tôi lắc đầu bảo anh ta đừng ngớ ngẩn, trong đầu tôi cũng không nắm được gì đâu.

Nói chung là, không còn nghi ngờ gì nữa, ở phía trước cách chúng tôi khoảng chưa đến hai trăm mét kia, nếu như không phải là một ông Ultraman béo phì tuổi trung niên thì hẳn là một ngọn núi đá khổng lồ. Đây là thứ mà ai cũng nghĩ tới đầu tiên, thế nhưng suốt trên đường đến đây đều là đất bằng phẳng cả, đâu có thấy ngọn núi đá nào mà to lớn đến thế này?

Núi đá này từ đâu chui ra vậy? Chẳng lẽ là bọn tôi bị lơ đễnh tập thể cả rồi nên lúc trước không nhìn thấy? Tôi tự nhủ, biết điều này là không thể rồi, bởi vì suốt đường đi, việc đầu tiên quan trọng nhất là bọn tôi phải đi tìm núi đá như thế này, bởi chúng tôi cần nơi râm mát để nghỉ ngơi, bóng của những núi đá như thế này là nơi nghỉ ngơi tuyệt vời mà bất cứ đội thám hiểm nào cũng sẽ lựa chọn. Mà thông thường thì, những ngọn núi đá trơ trọi kiểu này trên sa mạc không có nhiều, cho nên nếu mà nó xuất hiện thì chắc chắn chúng tôi sẽ chú ý thấy.

Có điều, bây giờ không lo nghĩ được nhiều đến thế. Có một ngọn núi đá lớn như vậy, quả thực là một nơi tránh gió quá tốt, đạn tín hiệu kia có lẽ chính là để cho chúng tôi tìm được nơi tránh gió đây.

Tôi bắt đầu chạy về phía ngọn núi đá kia, rất nhanh tôi liền cảm thấy được rõ ràng: càng tới gần núi đá gió càng giảm, sức lực càng dùng càng tăng, chạy được phân nửa quãng đường tôi đã thấy phía trước có năm, sáu ánh đèn lóe sáng phát ra từ những ngọn đèn mỏ.

Tôi mừng rỡ như điên, chạy điên cuồng về phía ngọn đèn, hứng lấy cơn cuồng phong, một bước nông một bước sâu mà chạy vọt đến. Nhưng chạy rất lâu, rất lâu mà ngọn đèn kia dường như vẫn không lại gần tôi một chút nào, mẹ kiếp hóa ra là ở xa đến thế, tôi nghĩ thầm. Lúc ấy cũng sức cùng lực kiệt rồi, bèn chạy chậm lại, gọi mấy người bên cạnh chậm lại chờ một chút, bởi tôi cảm thấy có điều gì đó không ổn.

Thế nhưng tôi vừa quay đầu nhìn lại, không khỏi choáng váng cả người. Bên cạnh tôi làm gì có người nào, xung quanh chỉ có cát bụi cuồn cuộn cùng bóng đêm vô tận.

Chương 49. Lc đường

Gió ở đây không còn dữ dội như vừa rồi nữa. Gió cuồn cuộn khắp bốn phía, phía trước chắc chắn là có thứ gì đó chắn gió lại, nhưng còn hai người vừa chạy cùng tôi thì đi đâu cả rồi? Tôi chạy đâu có nhanh, thế mà cũng tụt lại phía sau được ư? Hay là bị đá bay táng trúng, ngã mẹ nó luôn ở đằng sau rồi?

Tôi giơ cao chiếc đèn mỏ chiếu khắp xung quanh mà vẫn không thấy bất cứ một bóng người nào, tôi không khỏi có chút hối hận khi nãy quá tập trung về một hướng mà không chú ý đến tình hình xung quanh mình. Có điều, đi lại trong gió lớn như thế này, thực ra xung quanh cũng chẳng có gì để chú ý, tiếng gió thổi quá lớn nên chẳng nghe thấy được gì, mà tất cả tinh thần và thể lực đểu phải dồn hết cả vào mục tiêu trước mắt và thăng bằng cơ thể.

Nhoáng cái đã bị bỏ lại một mình, trong một chớp mắt tôi vẫn còn cảm thấy được một nỗi sợ hãi dâng lên, nhưng rất nhanh đã bị tôi xua tan mất. Tôi nghỉ ngơi một chút, hổn hển hít thở mấy hơi, sau đó tiếp tục đi về phía trước. Bây giờ tôi không thể quay lại tìm bọn họ được nữa, tôi đã mất cảm giác về phương hướng rồi, nếu quay lại sẽ chẳng biết đi đến đâu nữa, vì vậy biện pháp tốt nhất là đi về phía trước.

Tôi vứt bớt một ba lô trang bị đi, thứ này thật sự là nặng quá đi mất. Đồ nghề thám hiểm của người nước ngoài cá nhân hóa lắm, có lần tôi còn thấy có người mang theo một cái khung ảnh vợ của mình to như cái khiên, hay một quyển sách cỡ cái tablet vậy. Tôi lười vác giùm bọn họ lắm rồi, bèn trang bị nhẹ nhàng rồi tiếp tục chạy về phía ngọn đèn nọ.

Thế nhưng dù tôi có chạy đến cỡ nào ngọn đèn kia vẫn cứ ở xa tít mù tắp, cứ như thể tôi chẳng đến gần thêm được tí gì. Tôi thở hồng hộc. nghĩ muốn bỏ cuộc rồi, nhưng vẫn thấy không cam lòng. Lại chạy tiếp, chạy mãi, ngọn đèn phía trước liền hoa hết cả lên.

Ngay khi tôi sắp mất đi tri giác mà té nhào xuống đất thì bỗng nhiên, có người nào đó chợt kéo tôi lại. Tôi đã kiệt sức rồi, bọn họ kéo một cái tôi liền khuỵu xuống đất. Ngẩng đầu nhìn, qua một lớp kính chắn gió, tôi nhận ra đôi mắt của hai người kia. Một người là Muộn Du Bình, người còn lại là tên Kính Râm, kính chắn gió của tên này cũng màu đen nốt. Hai người kia vội vàng kéo tôi đi sang một hướng khác.

Tôi giãy khỏi bọn họ, chỉ vào phía trước, muốn nói rằng ở đó có nơi tránh gió.

Nhưng khi tôi vừa nhìn lại liền ngây ra, phía trước không thấy gì cả, ngọn đèn lúc nọ đã biến mất, ở đó chỉ có bóng tối mịt mùng, ngay cả cái bóng khổng lồ kia cũng không thấy đâu nữa.

Muộn Du Bình và Kính Râm không thèm để ý đến tôi, một mạch kéo lê tôi đi. Lúc bấy giờ tôi nhìn thấy khẩu súng tín hiệu trong tay tên Kính Râm. Hai người này khỏe khủng khiếp, tôi nặng gần chín mươi cân mà cũng bị bọn họ xách đi thoăn thoắt. Rất nhanh, tôi dần tỉnh lại, bắt đầu đạp chân lên mặt đất, ý rằng tôi có thể tự chạy được.

Bọn họ thả tôi ra, tôi lập tức hối hận ngay. Hai người kia chạy quá nhanh, muốn đuổi theo phải dồn hết cả hơi sức mà chạy. Tôi cắn răng chạy như điên, chạy một mạch, chạy đủ hai mươi phút, trước mắt tôi cuối cùng chỉ còn lại hai cái bóng của hai người nọ. Tôi hoảng hốt, biết bọn tôi đã chạy đến bờ sông rồi. Trèo lên được một đồi đất, hai bóng người phía trước đã không thấy tăm hơi.

Tôi gào toáng lên chờ tôi với, dưới chân lại đột nhiên vấp một cái, ngã lộn tùng phèo xuống dưới sườn dốc. Tôi vùng vẫy đứng lên, nhổ hết bùn đất trong mồm ra, nhìn khắp bốn phía xung quanh. Thì ra bên dưới sườn dốc này là một con rãnh sâu, trong rãnh toàn là người, tất cả đều co lại trong rãnh để tránh cơn cuồng phong. Thấy tôi ngã xuống, cả đám bèn ngẩng đầu nhìn tôi.

Chúng tôi co người lại dưới đáy rãnh, cát bụi cuồn cuộn lướt qua trên đầu chúng tôi. Hoang mạc Gobi không phải lúc nào cũng bằng phẳng, đặc biệt là ở những nơi từng có con sông chảy qua. Hai bên bờ sông có rất nhiều những con rạch nhỏ ngập nước mỗi khi thủy triều lên, những vết sẹo trên bề mặt hoang mạc này không quá sâu nhưng cũng phải cỡ hai, ba mét, thế là đã đủ cho chúng tôi tránh gió rồi.

Tôi đã sức cùng lực kiệt, có mấy người chạy đến đưa tôi xuống đáy con rạch. Hóa ra ở chếch bên trong con rạch này còn có một cái ao trũng rất lớn, có lẽ ở đây từng có một cây hồ dương lớn, cây hồ dương này sau khi bị đổ, bộ rễ của nó gãy lìa tạo thành một cái hố, lâu dần bị nước xối vào bào mòn nên mới hình thành cái ao trũng này. Thân cây hồ dương đã bị chôn vùi dưới đáy con rạch, chỉ có thể nhìn thấy một phần nhỏ nhô lên. Tất cả mọi người đều lui vào trong ao trũng này, còn đốt một bếp lò không khói để sưởi ấm, bên trong không có một chút gió nào.

Tôi bị người ta kéo vào trong. Ao trũng rất nông, cũng không cao lắm, ở bên trong đã chật chội lắm rồi, bọn họ co vào nhường cho tôi một chỗ, lại có một người khác đưa nước cho tôi. Nơi này là góc chết gió không thổi đến được, cho nên nói gì cũng có thể nghe thấy, thế nhưng tai tôi vẫn còn chưa thích ứng được, nhất thời không nghe thấy nổi bọn họ đang nói cái gì.

Uống mấy ngụm nước xong tôi mới cảm thấy khá hơn. Tôi tháo kính chắn gió ra, không khỏi bùi ngùi: xứ Trung Hoa này thiếu gì nơi tốt đẹp, thế đếch nào hết lần này đến lần khác tôi cứ đâm đầu vào những nơi như thế này?

Có điều, gió như vậy ở Sài Đạt Mộc chưa được tính là hiếm, cũng chưa phải mùa gió đáng sợ nhất ở đây. Trước đây tôi từng xem qua một số phim tài liệu về khảo sát địa chất ở bồn địa Sài Đạt Mộc, lúc đó đội khảo sát đang dựng lều thì gặp phải gió mùa, kết quả cả đám người đều bị thổi tung lên trời như mấy con diều, đồ đạc trong nháy mắt liền bị thổi bay ra xa cả chục mét. Chỉ có điều tôi cảm thấy rất kỳ lạ, vì sao Định Chủ Trác Mã lại không cảnh báo chúng tôi về điều này? Gió mùa trên hoang mạc Gobi rất rõ ràng, đừng nói là một bà già, chỉ cần là người sống ở đây một khoảng thời gian là có thể tự mò ra được quy luật của gió rồi.

Vả lại, chẳng biết gió này bao giờ mới chịu ngừng. Bình thường nghe người trên hoang mạc nói, ở nơi như thế này một năm chỉ có hai mùa gió, mỗi mùa phải đến nửa năm, một khi gió đã nổi là sẽ thổi không ngừng. Nếu cứ kéo dài như vậy, chúng tôi coi như xong đời.

Muộn Du Bình và Kính Râm chẳng mấy chốc lại đi ngoài, hẳn là đi tìm những người khác. Những người ở đây rõ ràng đều đã khiếp sợ vô cùng, chẳng có mấy ai nói chuyện, tất cả đều co rúm người lại một chỗ. Tôi thầm cảm thấy tức cười, nghĩ bụng còn tưởng bọn họ cũng giống như Indiana Jones chứ, hóa ra cũng chẳng ăn thua gì. Có điều tôi liền nhận ra chân của mình cũng không ngừng run rẩy, không thể đứng lên nổi.

Người đưa nước cho tôi uống hỏi tôi có sao không, có bị bầm tím chỗ nào không? Tôi lắc đầu đáp tôi không sao.

Thực ra, ký ức của tôi về một chuyến mạo hiểm trong bão tuyết trên núi Trường Bạch kia hẵng còn mới mẻ, như bây giờ là đã hơn hồi đó rồi, cuối cùng cũng có thể xem như là được nghỉ ngơi thư thái một chút, chí ít chúng tôi còn có chỗ ẩn náu, cũng không phải lo bị chết cóng.

Sau khi nghỉ ngơi một lúc, tôi mới có thể quan sát khắp mọi người trong ao trũng này một lượt, lại không thấy A Ninh đâu. Ba người Định Chủ Trác Mã, cô con dâu và Trát Tây ở tít bên trong cùng của cái ao trũng, Ô Lão Tứ cũng ở đây, nhân số không nhiều lắm, xem ra đa số mọi người vẫn còn ở bên ngoài, cũng không thấy anh chàng Caucasus đâu.

Đội ngũ này nhân số nhiều lắm, tôi thầm nghĩ, bọn A Ninh chắc hẳn vẫn đang ở bên ngoài tìm kiếm. Nhiều người đến vậy, cho dù bọn Muộn Du Bình có ba đầu sáu tay cũng chẳng thể lo hết được. Cũng may đây còn chưa phải ở trong sa mạc, nếu không, chỉ e là mấy người bọn tôi đều chết chắc rồi.

Ba giờ sau, gió mới chậm lại một chút, mới đầu bọn Muộn Du Bình thỉnh thoảng còn có thể đưa được vài người trở về, về sau bọn họ cũng kiệt sức, không ra ngoài nữa. Tất cả chúng tôi chui vào bên trong, nằm mê man, mãi cho đến khi sắc trời tối sụp xuống thật, bấy giờ mới quả thực là tối đen như mực. Tiếng gió thổi bên ngoài như tiếng ác quỷ gầm thét, mới đầu còn khiến người ta khó chịu, về sau thì chỉ cảm thấy buồn ngủ.

Tôi đã chuẩn bị sẵn việc gác đêm, cũng không có gì đáng ngạc nhiên, thực ra có nhiều người đã ngủ từ lâu. Có người mạo hiểm xông ra ngoài gió cát, lấy ít thức ăn trong các ba lô hành lý xếp chất đống ở bên ngoài. Chúng tôi phân chia thức ăn, ăn qua loa một ít, tôi liền ngả mình xuống cát vàng mà ngủ thiếp đi.

Không biết ngủ được bao lâu, khi tỉnh lại thì gió đã nhỏ đi nhiều. Đây là một dấu hiệu tốt. Tôi thấy đa số mọi người vẫn còn đang ngủ, Trát Tây ngồi trên chỗ cửa chui vào ao trũng, có lẽ là đang gác đêm. Ở đây không an ổn cho lắm, trên đỉnh đầu chúng tôi không phải là đá, mà là đất bùn khô nứt cùng cát đá, cho nên thỉnh thoảng lại có cát từ phía trên lọt xuống. Lúc tôi ngủ đã ăn cả một miệng toàn cát, cảm giác rất khó chịu, cho nên tôi phun cát phì phì vừa đi ra đến bên cạnh Trát Tây.

Tôi không có ý định tìm Trát Tây để nói chuyện phiếm. Trát Tây không phải loại người dễ sống chung, có lẽ cậu ta có tâm lý đề phòng với chúng tôi, mà tôi thì không phải cái loại người rảnh háng đi đem mặt nóng úp vào mông lạnh làm gì, cho nên cậu ta có thái độ mấy tôi cũng chẳng để tâm. Tôi đi tới bên cạnh cậu ta, chỉ là vì muốn hít mấy hớp khí trong lành, đổi chỗ ngủ.

Có điều, khi tôi vừa đến chỗ đó, chợt nghe bên ngoài có tiếng động, sau đó thấy ở ngoài có ánh sáng đèn mỏ, hình như có người nào ở ngoài.

Tôi lấy làm lạ, hỏi Trát Tây có chuyện gì thế? Trát Tây đưa cho tôi một điếu thuốc lá[1], nói A Ninh đã về, gió đã nhẹ bớt, bọn họ gọi người ra ngoài tìm những người khác, tiện thể xem xe cộ thế nào.

Tôi nghĩ đến chiếc xe bị cát lún, trong lòng cũng có chút lo lắng. Bão cát lớn đến vậy, không biết mấy chiếc xe này còn có thể chạy được không nữa. Hơn nữa, tôi khá là lo cho anh chàng người Caucasus nọ, không biết anh đã về chưa. Thế là tôi bèn đeo kính chắn gió lên, khoác áo choàng, đi ra ngoài xem, định đi hỏi thăm tình hình một chút.

Vừa đi ra ngoài, tôi liền thở phào một cái. Gió ở bên ngoài còn nhẹ hơn so với trong tưởng tượng của tôi, xem ra gió đầu đã qua rồi, trong không khí không còn nhiều cát bụi nữa. Tôi kéo áo choàng xuống, hít mấy hơi đầy lồng ngực cái bầu không khí mát rượi nơi hoang mạc, sau đó đi về phía có ánh đèn mỏ.

Đó là hướng phía lòng sông. Tôi đi xuống đó, đến bên mấy người bọn họ.

Bọn họ đang kiểm tra một chiếc xe. Chiếc xe này đã ngập trong hố cát, chỉ còn chừa lại cái mũi xe. A Ninh tay cầm bộ đàm, sốt ruột điều chỉnh tần số.

Tôi hỏi bọn họ: "Sao rồi?"

Một người lắc đầu, chỉ nói một câu: "Thê ly tử tán."

Tôi ù ù cạc cạc, không hiểu anh này nói vậy là có ý gì cho lắm, vì vậy bèn nhìn về phía A Ninh.

Cô ta nhìn tôi, cười rất miễn cường, đi tới giải thích: "Vừa rồi Định Chủ Trác Mã nói, rất có thể gió sẽ lại nổi lên lần nữa, chúng ta phải mau chóng tìm một nơi có thể tránh gió tốt. Có điều, xe của chúng ta đều bị cát lún cả, có mấy chiếc chắn chắn là hỏng rồi, những chiếc xe khác chỉ sợ cũng không thể khởi động được, cần phải sửa lại." Cô ta dừng lại một chút, "Phiền toái nhất chính là, có bốn người không tìm thấy được. Có lẽ khi nãy nổi gió họ bị lạc đường, chúng tôi vừa đi một vòng tìm mà không thấy."

Tôi hỏi mấy người đó gồm những ai, A Ninh nói đó là anh chàng người Caucasus kia và ba người còn lại tôi không quen biết.

Khi anh chàng người Caucasus mất tích là ở cùng với tôi, tôi liền chỉ hướng cho bọn họ, hỏi bọn họ đã tìm ở vùng đó chưa. A Ninh bèn gật đầu, nói đã tìm khắp các vùng xung quanh rồi, những người này chắc chắn còn đi xa hơn cô ta nghĩ.

Tôi thở dài, an ủi cô ta mấy câu, bảo cô đừng lo lắng. Những người này đều có GPS, hơn nữa, gió lớn như vậy, chắc chắn không thể đi xa được. Bây giờ vẫn còn có gió, tầm nhìn không quá rõ ràng, đợi đến rạng sáng lại tìm thì tiện hơn.

Cô ta cắn môi gật đầu nhưng vẻ mặt không thay đổi gì, làm tôi cảm thấy có chút không ổn. Tôi cũng không biết gì về hoang mạc Gobi, bây giờ không biết sắp xảy ra chuyện gì nữa, cho nên không còn cách nào khác ngoài im miệng lại.

Chúng tôi gắng sức mở cửa hai chiếc xe, lấy hết trang bị bên trong ra, sau đó bọn họ còn định đi tìm thêm một chiếc xe nữa, tôi chỉ biết chạy theo sau.

Lúc này tôi phát hiện ra xe bị lún xuống ở giữa lòng sông, dường như không phải do cát lún thường nhắc đến trong tiểu thuyết, mà là mặt đất ở dưới đáy lòng sông kia bị sụt xuống, cả xe bị rơi xuống dưới, cho nên mới không bị ngập quá nóc xe. Có người nói với tôi, đó là do lớp vỏ muối bị vỡ vụn. Nhiều nơi ở bên dưới hoang mạc này có rất nhiều lớp vỏ muối[2]. Nơi này vốn là lòng sông, trước kia khi sông vẫn còn nước, đáy sông vô cùng phức tạp, có một lượng lớn các chất tích tụ ở dưới. Khi khô hạn, vỏ muối kết tinh để lại rất nhiều khe hở, cho nên, ở nơi lòng sông này có những vùng có kết cấu như một miếng pho-mát, không chịu được sức ép. Như vậy là chúng tôi đã đỗ xe ở sai chỗ rồi.

Tôi lấy làm lạ, nói: "Nhưng suốt dọc đường chúng ta đều đi trên lòng sông này, đâu có xảy ra chuyện gì?"

Người kia đáp: "Đó là bởi vì con đường sông trước đó chúng ta đi đã khô cạn từ rất lâu rất lâu về trước rồi, còn đường sông ngay dưới chân chúng ta đây cùng lắm mới chỉ khô cạn được khoảng nửa năm. Cậu có thấy ở đây gần như không có một cọng cỏ hay một bụi cây nào không?"

Tôi giật mình nhìn xung quanh, quả là vậy, bốn phía đều trơ trụi, ngay cả một cây saxaul[3] cũng không mọc nổi.

Người kia nói với tôi: "Bây giờ chúng ta hẳn là đang đi về phía thượng du con sông này. Ở đầu nguồn con sông này chắc chắn phải có một ngọn núi cao, nếu sông không bị đổi dòng thì ở gần con sông này nhất định sẽ có thành cổ hoặc di tích gì đó, như vậy có nghĩa là bà lão người Tạng kia cũng không phải chỉ đường bậy bạ gì. Lúc đầu tôi còn tưởng bà già này là kẻ lừa đảo cơ đấy."

Tôi nhìn anh ta chỉ tay về phía thượng du con sông, trên hoang mạc bằng phẳng dường như quả thật có một điểm gì đó. Nhớ đến bóng đen khổng lồ giữa cơn gió lớn nọ, tôi vẫn có cảm giác đó không phải là ảo giác của tôi.

Đến nửa đêm, chúng tôi tìm thấy được toàn bộ xe của mình, sau đó chất hết hành lý lên xe. Bình minh lên, mọi người lần lượt tỉnh giấc, A Ninh bắt đầu phân chia các công việc: người thì sửa xe, người thì đi tìm những người khác.

Tôi cùng với mấy người đi tìm xe tối hôm trước thì đi kiếm chút gì đó ăn, sau đó chui vào túi ngủ ngủ bù. Chúng tôi mệt mỏi rã rời, ngủ một lần là ngủ đến tận khi mặt trời ngả về tây.

Khi tỉnh lại, gió đã hoàn toàn ngừng hẳn. Không còn cát bay nữa, hiệu suất làm việc của mọi người lại càng tăng cao: có mấy chiếc xe đã được sửa xong, chỉ còn chờ xuất phát; các loại đồ dùng trang bị đã được sắp xếp lại, cất ở trong xe.

A Ninh đã không ngủ một ngày một đêm, đến giờ vẫn đang không ngừng nghe bộ đàm. Muộn Du Bình và tên Kính Râm kia cũng không có ở đây, đi hỏi thăm thì được biết, hai người họ vẫn đang ở bên ngoài đi tìm bốn người bị mất tích.

Tôi nghe xong liền cảm thấy lo lắng. Đã một ngày một đêm rồi, vậy mà vẫn không tìm được bốn người nọ, chẳng phải bọn họ có GPS đấy sao? Hay lẽ nào lại đúng như lời Trát Tây nói, thứ này không thể dùng được trong hoang mạc?

Tôi lấy từ trong ba lô ra một ít lương khô, vừa ăn vừa đến chỗ A Ninh hỏi tình hình cụ thể.

A Ninh cau mày, hai vành mắt đều đã thâm sì, trông có vẻ rất tiều tụy, tôi hỏi cô cô cũng chẳng có tâm tư đâu mà trả lời tôi, vẫn liên tục nói chuyện qua bộ đàm với người đang đi tìm ở bên ngoài. Bọn họ nói chuyện bằng tiếng Anh, tôi nghe loáng thoáng cũng biết đó không phải là tin tốt gì.

Tôi hỏi cô ta có cần tôi ra ngoài đi tìm nữa không, cô ta lắc đầu, nói rằng không cần đâu, cô đã cử ba nhóm người ra ngoài tìm, đã đi đến lần thứ ba rồi, tôi có đi cũng chỉ vô dụng. Rồi cô ta lại bảo tôi đi thu dọn ít đồ, bọn Trát Tây đã tìm thấy một tòa thành ma ở cách đây khoảng hai mươi kilomet phía trước, một lúc nữa chúng tôi sẽ đi đến đó nghỉ ngơi, kẻo buổi tối trời sẽ nổi gió.

Tôi thấy cô ta đã vò đầu bứt tai lắm rồi, cũng không muốn làm phiền thêm nữa, bèn đi ra chỗ nhóm người đang sửa xe, giúp bọn họ lấy dụng cụ.

Khoảng nửa tiếng sau, Trát Tây từ phía lòng sông phía xa xa trở về, nói với chúng tôi rằng trời sắp nổi gió rồi, đường chân trời phía trước đã nổi cát bụi mù mịt, chúng ta phải mau đi thôi, nếu không công sức sửa chữa xe cộ nãy giờ sẽ đổ sông đổ bể mất.

Chúng tôi lập tức chuẩn bị, rất nhanh đã chuẩn bị xong. Bởi vì thiếu xe, cho nên những xe nào chưa sửa xong thì được kéo đi ở đằng sau. Tôi ngồi cùng xe với mấy người Tạng, lên đường đi về phía nơi mặt trời khuất núi phía xa xa.

Đi giữa hoang mạc Gobi mênh mông này khoảng chừng hai mươi phút, nơi mặt trời lặn phía trước dần xuất hiện những bóng hình núi đá bị phong hóa của dạng địa hình Yardang[4], từng ngọn núi đá nhô lên trên mặt đất bằng. Từ trong bộ đàm vang lên tiếng của Trát Tây chỉ hướng đi cho chúng tôi, chẳng mấy chốc, một "tòa thành" to lớn liền xuất hiện trước tầm mắt.

Đó chính là nơi tránh gió mà Trát Tây đã chọn, chúng tôi bèn đi thẳng đến đó. Khi đến gần, ngước nhìn lên mới thấy, hóa ra đó là một ngọn núi đá hình dáng giống như một cái bánh bao, đằng sau nó là cả một khoảng lớn lố nhố đầy những tảng đá núi bị phong hóa của địa hình Yardang, trông như những pháo đài phòng thủ của một tòa thành vậy.

Tòa thành ma này còn có tên là phong thành, do ở đây rất nhiều những tảng đá lớn ở đây bị gió bào mòn, tạo thành một dạng địa hình vô cùng đặc biệt: trải dài trong cả một khu vực lớn rải rác những mỏm núi đá hình thù kỳ lạ, dễ khiến người ta liên tưởng đến những chuyện ma quỷ; hơn nữa, do sự phân bố của các mỏm núi đá nên khi gió thổi qua sẽ vang lên những tiếng động nghe như tiếng gào khóc thảm thiết, vì vậy nó mới được gọi là tòa thành ma. Dạng địa hình này rất phổ biến trên các hoang mạc. Trước đây tôi từng đi tham quan ở Tân Cương cho nên lần này thấy vậy cũng không lấy gì làm kỳ lạ.

Chúng tôi dừng chân bên dưới một mỏm núi đá bằng phẳn ở bên ngoài "tòa thành". Trát Tây nhảy xuống trước rồi gọi to, chúng tôi bắt đầu xuống xe lục tục hạ trại. Hai tiếng sau, quả nhiên trời bắt đầu nổi gió, chẳng mấy chốc cát bụi mù mịt che kín cả bầu trời. Giống như hôm qua, gió thổi mãi đến tận nửa đêm mới dần dần dịu lại.

Gió quá lớn, ma quỷ trong thành gào khóc thảm thiết, chẳng ai có thể ngủ nổi. Gió nhỏ dần, mọi người mới dần dần thiếp đi. Có hai người do ban ngày đã ngủ nên giờ phải gác đêm, hai người này cảm thấy rất hứng thú với những ma quỷ trong tòa thành kia, thấy tôi và Trát Tây vẫn chưa ngủ bèn đi ra ngoài chụp ảnh. Trát Tây nhắc nhở bọn họ phải cẩn thận một chút, đừng đi vào bên trong, rất dễ lạc đường.

Tôi buổi sáng đã ngủ đủ, bây giờ hẵng còn tỉnh như sáo. A Ninh đang vắt óc suy nghĩ cách tìm người vào ngày hôm sau, tay vẫn cầm khư khư cái bộ đàm. Xem ra, nếu không tìm được mấy người kia thì A Ninh sẽ không chịu đi nghỉ ngơi.

Tôi đi đến khuyên cô đi ngủ một lúc, còn chưa nói được mấy câu, bỗng có tiếng người ở bên ngoài kêu to: "Bác sĩ! Bác sĩ!"

Bác sĩ của đội A Ninh là một ông béo mập, lúc này ông ta cũng không ngủ mà đang đọc sách, nghe thấy tiếng người gọi liền ngồi dậy. Chúng tôi cũng nhìn về phía tiếng gọi, liền nghe bên đó có tiếng gọi: "Mau tới đây! Tìm được A K rồi!"

A K là một trong bốn người mất tích. Chúng tôi vừa nghe liền giật cả mình, vội vã chạy tới bên đó. Chúng tôi nhìn thấy ở đó có hai người đi chụp ảnh tòa thành ma lúc nãy, đang đứng trên một gò đất vẫy tay với chúng tôi. Chạy đến nhìn xem, chỉ thấy trên gò đất này có một cái hố rất to, trong hố có người đang nằm. Đó chính là A K.

Bác sĩ hồng hộc chạy đến, nhảy xuống hố, sờ soạng một lúc rồi kêu to: "Còn sống."

Có mấy người luống cuống nhảy xuống hố khiêng người bị nạn lên. Bác sĩ kêu bọn họ khiêng anh ta vào trong lều.

Cảnh tượng rất hỗn loạn. Trát Tây cõng người nọ chạy về lều, tôi bị đẩy sang một bên. Nhìn cái hố kia một lúc, rồi lại nhìn về hướng chúng tôi đi tới đây, nghĩ bụng trời ạ, sao người này lại có thể ngã lộn cổ ở đây, nơi này cách nơi chúng tôi đỗ xe hôm qua những hơn hai mươi cây số, chưa kể lúc đó còn bị ngược gió nữa. Chẳng lẽ anh ta đi ngược gió mà tới đây sao?

Quay trở lại căn lều y tế, do được bác sĩ cấp cứu kịp thời, chẳng mấy chốc mà anh A K nọ đã được cứu về. Bác sĩ thở phào nhẹ nhõm, nói rằng anh ta chỉ bị kiệt sức mà té xỉu thôi. Bác sĩ châm cứu cho anh một cái, anh liền tỉnh lại.

Sau khi anh tỉnh lại, chúng tôi bèn hỏi anh đã gặp phải chuyện gì. Anh ta đáp, anh cũng chẳng biết có chuyện gì xảy ra nữa, anh cứ đi miết, đi mãi một hồi lâu, liền thấy trước mặt có một cái bóng, anh tưởng rằng ở đó có núi đá bèn đi thẳng về phía đó, cuối cùng đi mãi đi mãi, chẳng biết đi được bao lâu, liền bị ngã xuống hố. Nói rồi anh ta hỏi: "Ôi, thế Lão Cao với hai người khác đã về được chưa?"

Lão Cao chính là anh chàng người Caucasus nọ. Tôi nghe anh ta nói về cái bóng liền âm thầm giật mình, định nhờ anh ta kể lại chi tiết. Thế nhưng A Ninh vừa nghe anh ta hỏi về Lão Cao lập tức hỏi lại anh vì sao lại hỏi như thế, có phải anh đã gặp bọn họ rồi không.

Anh ta đáp: "Lúc đó bọn họ ở ngay phía trước tôi, tôi gọi thế nào họ cũng không quay đầu lại. Nghĩ lại thì chắc là do đi ngược gió nên bọn họ không nghe thấy, sau đó tôi bị ngã rồi ngất đi. Sao thế, bọn họ chưa về à?"

A Ninh kinh ngạc nói: "Ý anh là trước khi anh ngất đi vẫn còn nhìn thấy bọn họ?"

A K gật đầu. A Ninh quay đầu, nói với tôi: "Anh nghe thấy không? Nơi tìm thấy Lão K là bên ngoài tòa thành ma, phía trước chính là thành ma, như vậy, chắc hẳn bọn họ đã vào thành rồi! Chẳng trách chúng ta tìm mãi cũng không tìm thấy họ."

Đôi mắt cô lập tức sáng bừng lên, vỗ tay ý bảo chúng tôi đi ra ngoài. Chúng tôi ra khỏi lều y tế, bàn bạc một hồi, A Ninh khăng khăng muốn đi vào trong thành ma tìm kiếm.

Không biết những người này đã xảy ra chuyện gì, đi ngược gió suốt hơn hai mươi cây số, Lão K thì bị té xỉu ở bên ngoài, người ở trong thành có lẽ cũng đã sức cùng lực kiệt rồi, phải mau chóng tìm được bọn họ, như vậy chúng tôi mới an tâm hơn được.

Tôi hào hứng gật đầu đồng ý. Chúng tôi lập tức sắp xếp đội ngũ, có nhiều người giờ vẫn đang ngủ thì không đánh thức họ dậy, chỉ có ba người gồm ông bác sĩ, tôi và A Ninh đi vào trước xem xét một vòng. Những người còn lại thì để chừng hai tiếng nữa hẵng gọi họ dậy cùng vào.

Nói xong, chúng tôi liền đi chuẩn bị ngay. Khi vừa mới xách ba lô lên, Trát Tây bỗng đi tới, nói: "Chờ một chút, bà tôi nói, các anh không được vào đó."

---

Chú thích.

[1] Vốn là một loại thuốc lá do TQ tự sản xuất từ cuối thời Thanh, vì tự trồng tự sản xuất nên nó rẻ, ngày xưa những người ở tầng lớp thấp cực kỳ phổ biến hút loại thuốc lá này.

[2] Một dạng địa hình đặc biệt của Lop Nur. Lop Nur (hay La Bố Bạc) là khu vực các hồ muối (hiện nay phần lớn đều đã cạn) nằm ở giữa sa mạc Taklamakan và Kumtag thuộc phía Đông khu tự trị Duy Ngô Nhĩ, Tân Cương, TQ. Sau khi các hồ nước khô cạn, muối và kiềm có trong nước sẽ tích tụ lại, ngưng kết thành các lớp vỏ muối cứng rắn.

Vỏ muối tích tụ ở đáy hồ ở Lop Nur~

[3] Cây saxaul: cây này thuộc họ Dền, chỉ sinh sống ở các vùng hoang mạc ở Trung Á.

[4] Địa hình Yardang là một dạng địa hình phong hóa điển hình. "Yardang" trong tiếng Duy Ngô Nhĩ có nghĩa là "ngọn đồi nhỏ có vách dựng đứng"

Chương 50. Tòa thành ma

A Ninh lấy làm lạ, hỏi: "Vì sao?"

Trát Tây bèn nói: "Bà nội tôi nói, trước mặt mấy người đây là một tòa thành ma quỷ, chứ không phải điểm du lịch đâu. Khoảng địa hình Yardang này rộng phải đến tám mươi bảy ki lô mét vuông, mênh mông vô cùng. Cảnh quan bên trong đều rất nguyên sơ, không có bất kỳ biển chỉ đường nào, buổi tối mà vào đây thì cực kỳ dễ lạc đường. Hơn nữa, có người còn nói, trong này có cơ man là cát lún, năm 1997 cả một đội khảo sát địa chất đã mất tích ở đó, hồi ấy có biết bao nhiêu người đi tìm mà vẫn không thấy. Về sau, năm 1999, trời nổi gió lớn, một nhóm nhiếp ảnh gia khi đến đây chụp ảnh đã phát hiện ra hai cái xác khô quắt trong một hố cát, những người còn lại vẫn chưa tìm thấy."

A Ninh nghe xong liền lắc đầu, nói: "Cậu không phải lo, bọn tôi có mang theo GPS. Nếu theo lời cậu nói, địa hình nơi này phức tạp đến vậy thì chúng tôi càng phải đi vào trong, nếu đợi đến sáng mới đi tìm, không chừng bọn họ sẽ xảy ra chuyện mất."

Nói rồi, cô vẫn không nghe lời cảnh báo của Trát Tây mà gọi vài người tới, vặn đèn pin, định tiếp tục chuẩn bị tiến vào trong tòa thành.

Tôi nghĩ lời cô ta nói cũng có lý. Từ trước tới giờ Trát Tây toàn sắm vai nguy hiểm, mở mồm câu nào giật gân câu ấy, giờ lời cậu ta nói ra đương nhiên A Ninh sẽ không hoàn toàn tin tưởng. Hơn nữa, phong cách của người Tây là lấy con người làm gốc, bảo bọn họ phải bỏ rơi ba người đồng đội kia, đối với họ chẳng khác nào tự tay giết bạn mình cả, vì vậy không còn cách nào khác đành đưa ra quyết định này.

Tôi đương nhiên là muốn cùng đi theo, bởi ba người kia khi mất tích đều ở cùng với tôi. Dù nhiều dù ít, tôi cũng phải bỏ công bỏ sức ra một chút, bằng không nhỡ ba người kia quả thực gặp điều bất trắc gì thì tôi cũng không thể yên giấc được.

Trát Tây còn muốn nói gì đó, chợt Định Chủ Trác Mã ở bên liền quát một tiếng. Bà ta lắc đầu, ý bảo Trát Tây đừng nói nữa, sau đó nói liến thoắng với Trát Tây mấy câu tiếng Tạng.

Lập tức Trát Tây lộ ra vẻ mặt khó hiểu, nhưng dáng vẻ của Định Chủ Trác Mã rất kiên quyết. Trác Tây còn muốn kháng nghị nữa, nhưng Định Chủ Trác Mã liền mắng một tiếng, cậu ta không dám nói gì thêm nữa. Trát Tây gật đầu với Định Chủ Trác Mã, lùi trở về, vẻ mặt buồn bực mà nói với chúng tôi: "Mấy người gặp may đấy, bà nội tôi bảo tôi đưa mấy người vào trong." Nói rồi cậu ta vặn đèn pin, đến chỗ hành lý của mình, bắt đầu sắp xếp đồ đạc.

Tôi không nghe hiểu tiếng Tạng, bèn hỏi A Ninh xem bà lão kia nói gì thế. A Ninh cũng lắc đầu, bảo nhỏ tiếng quá cô cũng không nghe rõ, hình như là nói "nhận tiền của người ta thì giúp người ta trừ tai họa" đại loại thế thì phải.

Tôi thầm thấy tức cười, quay đầu thoáng nhìn Định Chủ Trác Mã. Bà cụ này đã quay trở về lều của mình, xem ra không có vẻ gì là lo lắng cả.

Trát Tây dọn dẹp sắp xếp lại trang bị một lượt, bỏ lại hết tất cả những đồ không cần thiết, mang theo đầy đủ nước và lương khô, còn có cả súng tín hiệu nữa. Sau đó đánh thức tài xế dậy, nói với ông ta ý định của chúng tôi, rồi để ông ta chờ ở bên ngoài chuẩn bị tiếp ứng. Nếu thấy chúng tôi ở trong bắn đạn tín hiệu lên thì tuyệt đối không vào trong, ở ngoài bắn đạn tín hiệu chỉ phương hướng cho chúng tôi. Nếu như bọn tôi vẫn không ra, thì đợi trời sáng mọi người hẵng vào trong tìm, chúng tôi sẽ để lại ký hiệu ven đường đi.

Người tài xế kia mơ mơ màng màng gật đầu ưng thuận. Bốn người chúng tôi sắp xếp một chút, sau đó Trát Tây xị mặt đi đầu, mấy người chúng tôi quay về phía lối vào thành ma sau lưng mà bắt đầu xuất phát.

Nơi chúng tôi tránh gió là ở sát ranh giới với tòa thành ma, đằng sau ngọn núi đá cao lớn nơi chúng tôi hạ trại là một sườn dốc kéo dài thẳng xuống dưới, ở phía cuối chính là mỏm núi đá trông như một tòa pháo đài mà tôi đã nhìn thấy trong bão cát, có lẽ đây là một mỏm núi đá khá cao nằm trong vùng thành ma.

Trên đường xuống dốc, Trát Tây dùng những hòn đá vụn đắp thành những đống đá A rập(*) đánh dấu hướng đi cho người đi sau. Cậu ta nói, suốt dọc đường đi, mỗi khi cần rẽ trái rẽ phải gì đó thì đắp một đống đá ở đó, sau này khi đang đi thẳng mà gặp đống đá của mình thì không được tiếp tục tiến bước nữa, nếu đi tiếp sẽ lại thành đi vòng vèo. Đây là mốc đánh dấu của cậu ta.

Chúng tôi nghe thấy có lý, nói không thành vấn đề.

Rất nhanh chúng tôi đã đến lối vào thành. Tiến vào trong tòa thành ma, quang cảnh bốn phía bắt đầu trở nên kỳ dị. Ngước mắt nhìn trông, dưới ánh trăng vằng vặc thấy cơ man những mỏm núi đá tối đen như mực nổi lên trên nền cát sỏi của hoang mạc, do ánh sáng mập mờ không nhìn rõ. Khi chiếu đèn pin qua mới có thể thấy những rãnh phong hóa do gió cát bào mòn hết sức rõ ràng trên bề mặt núi đá. Dưới màn trời tối mịt, một số ít những nơi ánh trăng có thể chiếu đến trông trắng lợt ảm đạm vô cùng, khiến tôi có cảm giác dường như đang bước đi trên mặt trăng.

Tôi nhìn ngắm cảnh vật suốt dọc đường, cố gắng nhớ lại những kiến thức địa chất học năm xưa đã học ở trường, nhưng đã quên sạch mất rồi. Chỉ biết vùng địa hình Yardang này bị phong hóa chưa lâu, đa phần địa thế tương đối thấp, thời gian núi đá và gò đất hình thành không dài nên mức độ phong hóa không nghiêm trọng. Vì thế, ở đây phần lớn đều là những núi đá và gò đất vô cùng cao lớn.

Trong tình cảnh đó, chúng tôi chỉ có thể đi xuyên qua các khe núi xen kẽ giữa những núi đá và gò đất, không thể thoải mái trèo lên trên các gò đất mà đi như ở những vùng thành ma khác. Có điều, ở kiểu địa hình này, các khe núi không hề bằng phẳng, nơi thì cao vượt lên trên mặt cát sỏi của hoang mạc, nơi thấp thì ở tít sâu dưới lớp cát hoang mạc. Theo địa chất học, nhưng ngọn núi đá này thực ra là đỉnh của hệ thống núi chìm bên dưới hoang mạc, đừng thấy nó chỉ cao có mười mấy mét mà nhầm, có khi dưới chân chúng tôi đây còn ẩn chứa cả một hệ thống núi đá cao đến cả chục ki lô mét nữa. Những rặng núi ngầm dưới lớp cát hoang mạc này đều là các nhánh của hệ thống núi Côn Lôn. Theo lý thuyết mà nói, chúng tôi bây giờ cũng là đang bước đi trên núi Côn Lôn.

Chẳng qua, tôi không có thời gian suy nghĩ nhiều đến những vấn đề học thuật này. Khi tiến vào trong được khoảng hai, ba ki lô mét, A Ninh bắt đầu dùng bộ đàm gọi. Còn bọn tôi thì lớn tiếng hô hoán, hi vọng ba người kia nghe được tiếng của chúng tôi mà đáp lại.

Ở giữa chốn thành ma vắng vẻ, tiếng gọi của chúng tôi lập tức bị vọng lại vô số lần, tiếng vọng vang lên chồng chéo nhau, có thể truyền đi rất xa. Xa xa mà nghe thì cảm thấy vô cùng quái gở, cứ như là tiếng quỷ khóc vang vọng lại từ cõi u minh.

Cứ như vậy, chúng tôi vừa đi vừa gọi, tìm được đủ ba tiếng đồng hồ thì cũng là lúc tiến vào rất sâu bên trong thành ma rồi. Chiếu đèn pin ra khắp bốn phía núi đá, mắt cũng hoa hết cả lên, mồm cũng đã kêu gọi đến mỏi cả rồi. Thế nhưng vẫn chẳng thấy bóng dáng nhóm người anh Caucasus đâu, cũng không có bất kỳ tiếng trả lời nào. Đáp lại tiếng gọi của chúng tôi chỉ có tiếng vọng của chính chúng tôi cùng với tiếng gió thổi hiu hiu.

Chúng tôi dừng lại nghỉ ngơi. A Ninh hỏi Trát Tây, dựa vào kinh nghiệm của cậu ta, phải tìm kiếm bằng cách nào mới tốt nhất đây?

Trát Tây lắc đầu: "Cũng chỉ có mỗi cách như mấy người vẫn làm đây thôi. Chúng ta bây giờ đi được khoảng bảy ki lô mét, nếu là tính theo đường thẳng thì là một quãng đường rất dài rồi. Thế nhưng thực ra chúng ta đã vô thức đi vòng vèo từ lâu, nhìn la bàn xem, bây giờ chúng ta đang đi theo hướng vòng về đấy. Con người ở nơi này cũng giống như con kiến, sẽ vô thức mà đi theo hình chữ S. Vì thế mới nói, bây giờ tôi chỉ có thể bảo đảm đưa mọi người ra ngoài thôi, việc tìm người tôi không có cách nào cả... Mấy người đó ngồi im một chỗ thì còn tốt, chứ bọn họ mà cũng đang mò mẫm tìm đường, vậy, cô nói xem, xác suất để hai nhóm người gặp được nhau trong một mê cung rộng tám mươi ki lô mét vuông là bao nhiêu?"

A Ninh không hài lòng với câu trả lời này, cau mày nói: "Mấy người các cậu trước đây không có ai từng bị lạc đường à?"

Trát Tây đang đắp một đống đá, không ngẩng đầu lên mà lắc đầu nói: "Chúng tôi không vào trong nơi này vào buổi tối."

Nói rồi cậu ta thở dài, không biết là có ý gì.

A Ninh nhìn vẻ mặt của mấy chúng tôi, cổ vũ vài câu, nói chúng tôi không nên nản chí. Chẳng qua hiển nhiên là không có tác dụng cho lắm. Chúng tôi rút ra mấy điếu thuốc, xốc lại tinh thần, tiếp tục bước đi.

Thế nhưng vẫn chẳng có tiến triển gì như chúng tôi kỳ vọng. Lại vừa kêu gọi vừa bước đi, cũng không biết là đã đi bao lâu rồi nữa, trong lúc đó đã dừng lại nghỉ ngơi dược bốn lần, Trát Tây đã đắp được không dưới ba mươi đống đá rồi, nhưng ngay cả một bóng người vẫn không thấy, cũng không có bất kỳ tiếng đáp lại nào. Dường như bên trong tòa thành ma vắng vẻ này đã nuốt chửng hết tất cả mọi tiếng gọi của chúng tôi.

Mà điều khiến tôi cảm thấy đáng sợ rõ ràng là, trước giờ đi mãi mà chúng tôi chưa từng đụng phải bất kỳ đống đá nào của Trát Tây, chứng tỏ chúng tôi vẫn còn đang tiến về phía trước. Tòa thành ma này thật sự là thâm sâu không thể lường được, không biết bên trong này còn có bao nhiêu chặng đường nữa đây.

Tiếp tục tiến bước, chúng tôi đi vào trong một hẻm núi kẹp giữa hai ngọn núi đá. Đến dưới chân một tảng đá lớn, thật sự là không thể đi tiếp nổi nữa, đành phải dừng lại nghỉ ngơi lần thứ sáu.

Lúc này chúng tôi đều đã khản giọng hết cả, không thể gọi to được nữa. Chúng tôi ừng ực uống từng ngụm nước lớn, tất cả mọi người đều mất giọng, đầu óc có chút trống rỗng.

Im lặng một lúc lâu, ông bác sĩ kia bỗng nói: "Có khi nào tòa thành ma này thật sự có ma quỷ chăng? Bọn họ đã bị ma quỷ bắt đi mất rồi?"

Lời này thốt ra rất đột ngột, chúng tôi đều sửng sốt một hồi. Trát Tây lườm ông ta một cái, bảo ông ta chớ có nói nhảm. Người Tạng tương đối truyền thống, nghe những lời như thế này cảm thấy khá khó chịu.

"Ma quỷ thì chắc chắn không có, người cũng chắc chắn là ở trong này." Một lúc sau, Trát Tây uống một ngụm nước cho nhuận giọng, vừa từ tốn nói: "Chỉ là không biết tình huống bây giờ là như thế nào thôi."

Mọi người lại im lặng, mỗi người đều có suy nghĩ của riêng mình. Trên thực tế, tôi biết bây giờ hy vọng trong lòng chúng tôi đều rất mong manh, lúc vừa mới vào đây, tôi còn ngỡ xác suất tìm được bọn họ rất lớn, chí ít thì cũng phải tìm thấy được chút ít dấu vết nào đó. Thế nhưng bây giờ, hoàn toàn chẳng có cách gì cả.

Nghỉ ngơi một hồi lâu, A Ninh nhìn đồng hồ đeo tay một cái rồi đứng lên, kêu chúng tôi chuẩn bị tiếp tục xuất phát. Chúng tôi đều theo phản xạ có điều kiện mà đứng lên, hít một hơi thật sâu, chuẩn bị xốc lại tinh thần, tiếp tục hò hét.

Vào đúng lúc đó, mấy người bọn tôi nghe thấy từ trong bộ đàm của A Ninh vang lên một tiếng người la hét. Tiếng tĩnh điện vô cùng lớn, rất chói tai, không nghe rõ là đang nói cái gì.

Bốn bề vốn im lặng như tờ, đột nhiên lại nảy ra cái tiếng động này làm chúng tôi sợ hết hồn, lập tức quay sang nhìn bộ đàm của A Ninh.

A Ninh cũng ngẩn người ra, vài giây sau mới phản ứng lại đứng, vội vàng cầm lấy bộ đàm đưa lên nghe cho kỹ.

Tiếng động kia lại một lần nữa vang lên, tiếng tĩnh điện rất chói tai, nhưng có thể nghe rõ là tiếng gọi của một người.

"Bọn họ ở ngay gần đây!" Chúng tôi kinh ngạc kêu lên. A Ninh gần như nhảy dựng cả lên.

Với địa hình của thành ma, bộ đàm hầu như không có tác dụng gì mấy, chỉ khi ở trong một khoảng cách rất gần mới có thể thu được tín hiệu. Suốt dọc đường A Ninh đều điều chỉnh thử bộ đàm xem có thu được tín hiệu gì không, nhưng không có kết quả gì, giờ đây tín hiệu đột nhiên là vang lên, hiển nhiên là bộ đàm của đối phương đang ở rất gần đây.

Chúng tôi âm thầm thở phào một cái. A Ninh lập tức bắt đầu xoay vặn điều chỉnh tần số, giọng nói kia mới bắt đầu rõ ràng hơn, thế nhưng vẫn không nghe ra được là đang nói cái gì. Sau đó, cô ta kêu to vào bộ đàm: "Tôi là đội trưởng, chúng tôi đang đến tìm các anh, các anh đang ở hướng nào?"

Đáp lại là một chuỗi âm thanh liên tiếp khó mà diễn tả được, tiếng nhiễu sóng rất nhiều, nhưng ngữ điệu có thay đổi, rõ ràng là đối phương đã nghe được tiếng gọi của chúng tôi.

Những uể oải vừa rồi liền bị quét sạch, ông bác sĩ hét to một tiếng "Yes!". Tôi cũng lấy bộ đàm của mình ra, vỗ vỗ, điều chỉnh một chút, nhìn xem máy móc có vấn đề gì không. Rất nhanh sau đó tôi cũng nghe được âm thanh nọ, cũng vẫn là tiếng ầm ĩ xì xèo như vậy.

A Ninh lại gọi một lần nữa, lúc này đây, âm thanh nọ mới rõ ràng hơn một chút. Mấy người chúng tôi vẫn cố gắng lắng nghe, hy vọng có thể nghe thấy rõ đối phương đang nói cái gì.

Nghe một hồi, tôi liền phát hiện ra có gì đó không ổn. Người bên kia bộ đàm hình như không phải là đang nói chuyện. Cái ngữ điệu giọng nói này vô cùng kỳ quái, rất khó hình dung, nghe thật kỹ thì thấy hình như là tiếng một người đang cười khẩy một cách đầy oán độc.

-

(*) người A rập cổ đại khi đi lại trong sa mạc thì dùng những đống đá này thay cho biển chỉ đường, để cho người đi sau khi đi sâu vào sa mạc hay khu vực thành ma không bị lạc đường.

Chương 51. Tiếng gi ca ma qu.

Tôi "hở" một tiếng, cảm thấy có gì không ổn, lại dỏng tai lắng nghe, mà càng nghe lại càng cảm thấy dường như đây không phải tiếng người nói chuyện. Tuy không dám khẳng định chắc chắn, nhưng nghe thì rất giống tiếng cười.

Mấy người kia cũng nhận ra được điều này. A Ninh liền ngừng kêu gọi. Chúng tôi nhìn nhau, ai nấy đều có vẻ kinh ngạc vô cùng.

Ông bác sĩ nói: "Thế này là sao thế? Sao bọn họ lại đang... cười? Có phải là do nghe thấy tiếng chúng ta nên vui quá không?"

Trát Tây liền vặn lại: "Lúc vui ông cũng cười như vậy hả?"

Vẻ mặt A Ninh cũng đầy nghi hoặc. Cô ta không hô hoán nữa mà tiếp tục điều chỉnh bộ đàm, muốn nghe rõ âm thanh trong bộ đàm hơn chút nữa.

Nhưng thử chỉnh mãi mà vẫn không có tác dụng gì. Có điều, âm thanh nọ lại vang lên mấy phút nữa. Cả bọn liền dán tai vào nghe, càng nghe càng thêm rõ, thực là rất giống tiếng cười gằn, nghe có vẻ vô cùng oán độc, vốn không thể nào là từ một người bình thường phát ra, mà như là từ một kẻ tâm thần thì đúng hơn. Nhưng nghe kỹ hơn nữa, lại cảm thấy dường như bên cạnh tiếng cười kia còn có một tiếng động khác nữa, tiếng động này rất nhỏ. Hai loại tiếng động này hòa vào nhau, giữa khung cảnh nơi tòa thành ma mang đầy màu sắc ma quái khủng khiếp khiến người nghe vào cảm thấy khá là quỷ dị.

Nghe một tiếng cười khẩy rõ ràng không có ý tốt gì, tôi thấy rất khó chịu. Ngay cả tên mặt cứ lạnh như tiền suốt dọc đường đi - Trát Tây bây giờ cũng phải khiếp sợ, mặt mũi trắng bệch, nuốt nước bọt, nói: "Sao thế này? Cười gì khó nghe bỏ mẹ đi được."

A Ninh ra hiệu bảo cậu ta đừng nói gì, rồi dí sát bộ đàm vào tai mình, lại nghe một lúc nữa mới nói: "Đây hình như không phải tiếng của con người!"

"Cô chớ nói lung tung!" Ông bác sĩ kêu lên: "Không phải người chẳng lẽ là quỷ?"

"Mọi người nghe kỹ mà xem." A Ninh bảo chúng tôi lại gần: "Tiếng động này có tần suất rất nhanh, hơn nữa, âm điệu cứ bình bình. Đã kêu liên tục đến năm phút rồi, ông thử cười như thế này suốt năm phút liền cho tôi nghe xem nào?"

Tôi vừa nghe liền thấy có lý, lại hỏi: "Thế đây là tiếng gì vậy?"

"Với tần suất thế này chắc là tiếng động của máy móc, ví dụ như tiếng do đồng hồ đeo tay bị dí sát vào bộ đàm chẳng hạn. Có điều nghe kỹ thì thấy âm thanh này tần suất không đều, cũng có thể là do có người đang dùng móng tay liên tục cào vào ống nói bộ đàm." A Ninh làm mẫu thử một chút, "Cộng thêm tiếng tĩnh điện nữa, sẽ thành ra cái tiếng này."

"Dùng móng tay cào vào ống nói bộ đàm, vì sao bọn họ phải làm vậy?" Bác sĩ nói: "Sao không lớn tiếng kêu lên, như thế biết đâu không cần bộ đàm chúng ta vẫn có thể nghe thấy."

Ông ta vừa nói xong, sắc mặt của Trát Tây và A Ninh cũng thay đổi. Tôi bỗng nhiên nhận ra được điều gì, nói: "Có thể bọn họ đang ở tình thế không thể kêu to được, cũng không thể nói chuyện, chỉ có thể dùng cách thức này để liên lạc với chúng ta."

"Hố cát! Bọn họ đang bị chôn trong hố cát!" Trát Tây kêu lên: "Có lẽ đã bị lún xuống chỉ còn chừa cái đầu. Trong tình cảnh đó, đánh rắm một cái thôi cũng đủ chìm xuống rồi!"

"Chó thật!" Chúng tôi liền căng thẳng, lập tức đứng hết dậy, nhìn bốn phía tối om. Lòng tự hỏi rốt cuộc họ đang ở nơi nào.

Lúc này A Ninh vẫn tương đối giữ bình tĩnh, cô ta vỗ tay một cái nhắc chúng tôi đừng hoảng loạn: "Bình tĩnh bình tĩnh, bọn họ vẫn có thể phát tín hiệu đi chứng tỏ bây giờ tạm thời họ vẫn an toàn, chúng ta có thể thu được tín hiệu, chứng tỏ bộ đàm bọn họ chắc chắn đang ở gần đây, chúng ta nên nhanh chóng tìm đến thôi."

"Tuy nói là gần, nhưng cái 'gần đây' cũng rộng lớn lắm đó. Biết tìm thế nào?"

A Ninh bảo chúng tôi đi theo, bắt đầu cầm bộ đàm đi quanh bốn phía, tìm hướng tín hiệu truyền tới.

Tôi vừa nhìn mới thấy đúng thật, sao tôi lại không nghĩ ra nhỉ, uổng công mang tiếng là người có ăn có học. Ở địa hình như thế này, nếu có thể thu được tín hiệu vô tuyến điện thì chắc chắn là ở xung quanh có địa hình hình khuyết nhiễu xạ sóng, hơn nữa, độ mạnh yếu của sóng vô tuyến có liên quan mật thiết với khoảng cách, cho nên có thể thông qua mức độ tiếp xúc sóng vô tuyến để phán đoán xem ta có đang đến gần mục tiêu hay không.

Chúng tôi lập tức đi theo sau. Đi được một vòng mới phát hiện tín hiệu kêu vang nhất là ở một nơi sâu trong một hẻm núi, rõ ràng nguồn phát tín hiệu là ở trong hẻm núi đó. A Ninh gọi to một tiếng, chúng tôi liền nhanh chóng chạy vào bên trong, đồng thời lôi hết đèn pin ra chiếu sáng. Trát Tây kêu to: "Cẩn thận dưới chân!"

Chúng tôi không để ý được nhiều vậy, chỉ biết vừa chạy vừa tìm, chẳng mấy chốc mà đã chạy hết hẻm núi, trước mặt chúng tôi xuất hiện một gò đất rất lớn hình bán nguyệt chặn lối đi, cao chừng năm mươi mét, trông giống một mặt cánh buồm khổng lồ, vừa cao vừa dốc, nhìn qua thì thấy không thể trèo qua đây được.

Người hiểu biết về bộ đàm vừa nhìn qua là hiểu ra ngay, địa hình như vậy là nơi tín hiệu vô tuyến yếu nhất, yếu không khác gì khi ở tít trong thung lũng trong núi lớn. Nhưng khi chúng tôi nhìn vào bộ đàm, tiếng động kia vẫn hết sức rõ ràng, không yếu bớt chút nào. Như vậy có thể nói, thứ phát tín hiệu kia chắc chắn nằm trong vòng 110 mét xung quanh gò đất hình bán nguyệt này.

"Là ở đây sao?" Chúng tôi ai nấy đều toát mồ hôi lạnh, cứ có cảm giác không ổn, bởi nơi này chỉ cần chiếu đèn pin qua là nhìn thấy hết toàn bộ, đến một bóng ma cũng chẳng có.

"Lẽ nào đã chìm xuống dưới rồi?" Trong lòng tôi xuất hiện một ý nghĩ chẳng lành.

A Ninh lắc đầu, bởi vì tiếng động vang lên trong bộ đàm kia vẫn rất to rõ. Cô ta liền gọi chúng tôi một tiếng, bảo chia nhau ra đi tìm.

Chúng tôi tản ra, cẩn thận tìm kiếm các dấu vết trên mặt đất. Rất nhanh sau đó, Trát Tây liền kêu lên, có phát hiện, chúng tôi lập tức tiến tới, nhìn thấy trên mặt đất có những dấu chân rất lộn xộn. Không phải của chúng tôi.

Chúng tôi lập tức lần theo dấu chân đi về phía trước tìm kiếm. Dấu chân in trên mặt cát vô cùng rõ ràng, từ đó có thể thấy đó là ba người. Chúng tôi đi theo dấu chân đi được hơn mười mét, đến dưới chân gò đất, dấu chân bất chợt ngừng lại ở đó. Không có dấu chân rẽ hướng vào đâu đó, cũng không có dấu vết hố cát.

"Đệch, hay là đi vào trong gò đất rồi?" Trát Tây tặc lưỡi nói.

"Không phải!" A Ninh lộ ra vẻ mặt không thể tưởng tượng nổi. Cổ ta ngẩng đầu nhìn về phía gò đất, phía trên đó tối om om, không nhìn thấy bất cứ thứ gì cả. "Bọn họ leo lên rồi."

Đây mới là lạ. Cả bọn đều sửng sốt, ngẩng đầu nhìn lên trên, chỉ thấy nơi gò đất khuất bóng là một khoảng tối đen, một màu đen thuần như một tấm màn đen khổng lồ. Đèn pin của chúng tôi chiếu lên trên, nhưng bởi vì gò đất này cao quá, ánh sáng đèn pin không thể chiếu sáng được hết toàn cảnh.

Bọn họ lên đó làm gì? Lẽ nào trên gò đất này có thứ gì chăng?

Lúc này, A Ninh bảo chúng tôi lùi ra phía sau, sau đó lôi khẩu súng báo hiệu ra, bắn lên trời một phát.

Đạn tín hiệu nóng rực bay lên giữa không trung, sau đó nổ tung, khắp nơi sáng trưng như ban ngày. Trong nháy mắt đó, toàn bộ cảnh tượng ẩn trong bóng đen vừa rồi lập tức hiện ra.

Tất cả chúng tôi nhìn khắp xung quanh, đùng một cái mà sáng trưng như thế này, mắt chúng tôi vẫn chưa kịp thích ứng, không nhìn được rõ ràng. Bỗng nghe tiếng A Ninh cả kinh kêu lên: "Ôi trời!"

Chúng tôi vội vàng nheo mắt lại, ngẩng đầu nhìn lên giữa lưng chừng không trung, dưới ánh sáng chói của đạn tín hiệu, chúng tôi nhìn thấy ở giữa sườn gò đất khổng lồ hình bán nguyệt có khảm một vật thể nào đó rất lớn, vật thể đó một nửa chôn trong gò đất, một nửa nhô ra vắt ngang giữa không trung.

Chương 52. Thuyn đm trong bin cát

Trong mấy chục giây đạn tín hiệu ấy, toàn bộ chúng tôi đều khiếp sợ đến ngây người. Tất cả mọi người nhìn vật khổng lồ kia, đầu óc trống rỗng. Mãi cho đến khi đạn tín hiệu tắt, chúng tôi mới tỉnh lại được, lập tức tất cả ánh đèn pin đều dồn về phía vật đó.

Những chùm tia sáng lẻ tẻ không thể soi sáng được toàn bộ vật kia. Dưới ánh sáng đèn pin, chúng tôi chỉ có thể biết ở chỗ đó có thứ gì đó, nhưng ngước lên chỉ thấy mờ mờ không rõ. Nếu không phải vừa rồi có ánh sáng đạn tín hiệu soi ra được hình dáng thì chỉ với với đèn pin soi qua, chúng tôi chắc chắn sẽ không chú ý đến có gì khác thường. Mà chúng tôi đứng từ dưới nhìn lên, cũng thực không nhìn rõ nổi.

"Đấy là cái gì?" Trát Tây lẩm bẩm.

Không ai có thể nói ra được đó là cái gì, tôi chỉ có thể xác định, đó là xác của một vật thể nào đó bằng gỗ, chỉ là, không biết là xác của vật gì. Thoạt nhìn thì trông giống một bộ quan tài khổng lồ, nhưng nhìn kỹ lại thấy hình dáng không giống lắm, hình như là xác của một tòa kiến trúc nào đó. Nhưng tôi chưa bao giờ nhìn thấy một công trình kiến trúc nào có hình dạng cổ quái đến vậy.

"Trèo lên xem tí đi!" Không biết ai nói câu này, chúng tôi mới tỉnh lại được. Mấy người này đã liền muốn trèo lên sườn dốc rồi, tôi vội vàng cản họ lại, nói: "Đừng làm bậy, bình tĩnh một chút. Chỗ này cao đến thế, hơn nữa còn là một gò đất, không phải cứ trèo đại lên là lên được, nếu có gì bất trắc thì hỏng bét."

A Ninh cũng gật đầu nói: "Đúng, hoàn toàn không tìm thấy ba người kia, cả ở dưới này chúng ta cũng đã tìm rồi, vẫn không có phát hiện bất cứ đầu mối gì, như vậy, rất có khả năng là bọn họ ở phía trên, mà giờ một chút động tĩnh cũng chẳng có, nhất định là có vấn đề. Không chừng, phía trên này có nguy hiểm gì, chúng ta phải cẩn thận. Hay là để tôi lên trước xem một chút, nếu ổn, mọi người cùng lên."

Nói rồi, cô ta giắt đèn pin vào một bên hông, để bọn tôi chiếu sáng còn cô thì tự mình chuẩn bị trèo lên.

Bấy giờ, Trát Tây liền ngăn cô ta lại, nói: "Đừng động, để tôi tới, chuyện này để đàn bà con gái làm coi sao được. Gò đất kiểu này trước đây tôi trèo lên nhiều lần rồi, chắc chắn có kinh nghiệm hơn so với chị." Nói đoạn, cậu ta cũng không chờ A Ninh đáp lại, liền miệng cắn dao găm, nhảy lên gò đất, sau đó dùng dao găm thay cuốc chim leo núi, bắt đầu leo lên trước.

Động tác cậu ta rất nhanh, thoăn thoắt cứ như một con khỉ. Chúng tôi chiếu đèn pin cho cậu ta, hầu như chẳng mất tí công sức gì. Chúng tôi nhìn cậu ta rầm rập trèo đến phía dưới vật thể khổng lồ kia. Cậu ta tìm một chỗ đứng vững, rồi quay ra làm một động tác tay với bọn tôi, ý rằng không khó trèo lắm đâu. Sau đó, cậu ta lấy đèn pin chiếu cái vật kia.

Đứng ở dưới, chúng tôi chỉ có thể nhìn thấy động tác cậu ta, chứ không thấy cậu ta chiếu ánh sáng nhìn ra vật gì, trống ngực đập dồn. Ông bác sĩ hỏi: "Đó là gì thế?'

"Tôi không biết." Tiếng Trát Tây vọng xuống dưới. Tôi nhìn thấy cậu ta ở trên cao gãi đầu gãi tai, phun ra một câu tiếng Tạng, sau đó nói: "Trời ơi, đây... hình như là một con thuyền đấy!"

"Thuyền?" Chúng tôi nhìn nhau. Trát Tây lập tức kêu lên: "Thật là thuyền! Mấy người trèo lên đây mà xem."

Cậu ta vừa nói xong, A Ninh liền trèo lên. Tôi cũng vụng về đi theo A Ninh. Ông bác sĩ quá béo, trèo được một tí lại trượt xuống. Chúng tôi đành để ông ta đợi ở dưới, đừng làm bậy cái gì, kẻo tí ngã chết thì toi đời, sau đó mới trèo đến chỗ Trát Tây.

Đất ở sườn dốc này quả thực không khó trèo. Có hơi dốc chút, tuy rằng đất rất xốp, nhưng bề mặt không bằng phẳng, có rất nhiều chỗ để đặt chân. Chúng tôi học theo Trát Tây, dùng dao găm làm cuốc chim leo núi, thoăn thoắt chả mấy chốc mà đã đến gần.

Tôi dùng cả tay lẫn chân leo đến bên cạnh Trát Tây. Phía trên này rất lạnh. Tôi giẫm lên mấy gờ đất nhô ra, trượt một chút rồi mới đứng vững gót chân, sau đó nhìn về phía vật kia. Thế nhưng nó vẫn cách tôi quá xa, tầm nhìn cũng bị Trát Tây che mất, không thấy rõ lắm thứ kia có thật là thuyền hay không.

Tôi dịch sang một chút, chừa cho mình một vị trí, bấy giờ mới nhìn rõ. Dưới ánh đèn pin của Trát Tây, một vật đổ nát từ cổ xưa ghim vào trong gò đất, chỉ nhô ra phân nửa, một nửa còn lại cắm vào sâu trong lòng gò đất, nhìn hình dạng, quả đúng là một con thuyền đắm thời cổ đại.

A Ninh đốt một quả pháo lạnh, hướng lên trên phía con thuyền đắm. Lúc này bốn phía đã sáng bừng lên, tôi phát hiện mức độ tàn tạ của con thuyền đắm này đã rất rõ ràng, gần như rữa ra hòa cùng với bùn đất, đã bị carbon hóa. Ở một bên thuyền gỗ còn có một vết nứt cực lớn, bên trong hình như trống không. Tôi có thể thấy trong đó có bùn, nhưng ở nơi sâu nhất thì tối đen, không nhìn thấy gì cả.

Tôi quay đầu nhìn địa hình xung quanh, nghĩ thầm đây chính là một phát hiện lớn. Nơi này trước đây chắc là một con sông cổ, con thuyền đắm này bị đắm ở con sông cổ này, rồi bị chôn vùn trong nước bùn. Không ngờ bãi bể nương dâu, con sông cổ đại giờ lại biến thành sa mạc, hơn nữa, gò đất chôn vùi con thuyền đắm này lại cao hơn mặt đất nhiều đến thế.

A Ninh leo đến bên con thuyền cổ, soi đèn pin vào trong khe nứt, liền soi thấy ở trong có một lượng lớn bùn và thứ gì đó vùi trong bùn. Trong đống bùn đó, còn có thể thấy rất nhiều những bình gốm sứ và các đồ vật cùng loại khác nữa.

A Ninh nói: "Có lẽ đây là một con tàu chở hàng đi Tây Vực buôn bán, những thứ này là hàng hóa của họ, đây thực là một phát hiện chấn động, hiện nay vốn có rất nhiều người nhận định rằng Tây Vực không có vận tải đường thủy."

Thời cổ đại, nơi đây là một trong mười bảy con đường tơ lụy đầy hung hiểm, mà các quốc gia Tây Vực lại phân bố ở trên mảnh đất hoang vu này. Nơi đây là dải đất trung gian để giao dịch giữa nền văn minh A Rập và văn minh Trung Hoa. Xưa kia, trên vô số những dòng sông này cực kỳ phồn thịnh náo nhiệt, không biết bao nhiêu là vải vóc tơ lụa đã đi qua những con sông này để chuyển đến phương Tây. Có người nói, hoàng thất các nước Tây Vực còn có thể ăn cả dưa hấu của Trung Nguyên. Thuở ấy, những con sông ở đây thay đổi khôn lường, không ít những đội thương buôn bị mắc cạn hoặc đắm tàu vì sông cổ đổi dòng. Ở sâu trong sa mạc này ít nhất cũng phải có hơn một ngàn con thuyền đắm bị vùi lấp dưới tầng cát, nhưng bởi vì sa mạc thay đổi quá nhiều lần, cho nên gần như không thể nào tìm được chúng, không ngờ ở nơi đây lại có một chiếc thuyền.

Ông bác sĩ đứng dưới không nhìn thấy gì, sốt ruột kêu to: "Thấy gì thế? Ba người kia có phải ở trên đó không?"

Trát Tây gọi với xuống mấy tiếng trả lời, ông bác sĩ lại nói cái gì đó nghe không rõ.

Lúc này, tôi bỗng nghĩ đến anh chàng Caucasus nọ. Có lẽ bọn họ cũng là bởi nhìn thấy con thuyền đắm này, sau đó mới trèo lên trên kiểm tra xem. Đã tìm hết phía dưới cả rồi mà không phát hiện ra người nào cả, vậy bọn họ chắc hẳn ở phía trên. Thế nhưng liếc nhìn vách đá bốn phía cũng chẳng thấy một ai, không biết ba người này đã đi đến nơi nào rồi.

Các vách đá ở đây, ngoại trừ con tàu đắm ra thì không có nơi nào có thể trú ẩn, lẽ nào ba người kia ở bên trong con thuyền?

Lúc này, ánh trăng bị mây đen che khuất, thoáng cái, bốn phía càng thêm tăm tối, mấy người chúng tôi tìm được một vị trí đứng vững. Tôi bảo A Ninh mở bộ đàm, tìm vị trí tín hiệu.

A Ninh lấy bộ đàm ra, vừa bật lên, tiếng động kia lại váng lên, vô cùng rõ ràng. Cô ta vung tay một cái, tín hiệu cũng không khác lắm. Sau đó, Trát Tây chỉ chỉ vào con thuyền, bảo cô ta nhắm vào con thuyền cổ thử xem. A Ninh với người đến, vừa đến gần khe nứt trên thân con thuyền cổ, chúng tôi tức khắc liền nghe thấy tiếng động vang lên cực kỳ rõ ràng từ bộ đàm.

Bọn tôi nhìn nhau, ai nầy đều cảm thấy không thể tin nổi. Xem ra, tín hiệu thực sự là từ bên trong con thuyền cổ này phát ra.

Trát Tây nhìn vào trong cái khe một chút, nói: "Đúng là gặp ma rồi, chẳng lẽ ba người kia lại ngu ngốc đi trèo vào trong này?"

Cái khe rất rộng, quả thực con người có thể trèo vào, chỉ là không gian bên trong không biết có thể đủ cho cả bọn họ hay không. Chúng tôi chiếu đèn pin vào trong, thấy con thuyền này cực kỳ sâu, ở tận cùng bên trong tối đen. Tôi gọi mấy tiếng, nhưng không có ai đáp lại.

"Làm sao bây giờ?"

"Có lẽ là bọn họ đi vào rồi, nhưng rồi lại đi ra, bộ đàm bị rơi lại ở bên trong." A Ninh nói, "Cũng có thể bọn họ ở trong đó gặp bất trắc gì đó."

"Tiếng động này phát ra thế nào?" Tôi hỏi.

"Cái này không ai có thể trả lời được, có điều, cứ vào trong xem ắt biết." A Ninh nháy mắt với tôi, nói rồi bỏ ba lô trên lưng xuống, có lẽ ý là muốn tôi chui vào trong xem cùng cô ta.

Trát Tây là người dẫn đường, phải giữ sức cho cậu ta. Ở đây chỉ có tôi và A Ninh thể hình tương đối bình thường, tôi cũng không thể từ chối được. Cô ta cởi áo khoác, cắn dao găm, sau đó khom lưng bò vào khe nứt trước.

Đi vào trong, bùn bám trên thuyền không ngừng rơi xuống, cũng may thân thuyền khá chắc chắn. Sau khi tiến vào, A Ninh ngừng lại vài giây, trụ vững một chút, rồi Trát Tây bèn đưa đèn pin vào trong cho cô nàng. Sau đó tôi cũng cởi áo khoác, trèo vào.

Khe nứt này vừa đủ để tôi có thể chui vào, có điều, bên trong rộng rãi hơn so với tưởng tượng của tôi. Tôi lóng ngóng chui vào, phát hiện bên trong là một thế giới toàn bùn với đất, trên đỉnh đầu rặt những bùn khô, không thể nào ngồi xuống, chỉ có thể nằm rạp xuống mà bò. Không gian trong khoang thuyền vốn rất rộng, nhưng bây giờ thì chất đầy toàn bùn đất, kỳ thực, bọn tôi đang ở ngay trong một hang động bằng bùn.

A Ninh bật bộ đàm, lúc này tiếng động nghe như tiếng cười lạnh liền vang lên rõ ràng. Tiếng động này ở nơi đây cực kỳ vang dội. Nhìn trong khoang thuyền chỉ có tối om om một khoảng, tim tôi như bay lên cuống họng. Rốt cuộc là cái gì mới phát ra được tiếng động như vậy chứ?

A Ninh ở trong, dùng tư thế trườn nghiêng, chính là tư thế bộ đội cầm súng trườn bò. Cô ta dùng một tay đẩy người lên trước, tay kia cầm đèn pin chiếu sáng khắp xung quanh. Tôi cũng thở hổn hển bắt chước động tác của cô ta, cũng bắt đầu lấy đèn pin chiếu sáng đống bùn khắp bốn phía. Thực sự tất cả toàn là bùn với bùn, ngoài một ít phiến gỗ thỉnh thoảng có thấy găm trong bùn, tôi cảm thấy mình như đang trong một trận tác chiến dưới đường hầm vậy.

Nhất định sau khi thuyền đắm, những bùn đất này đã tràn vào trong thông qua khe vỡ trên thuyền. Ngay lúc đó có lẽ thuyền còn chưa chìm nghỉm hoàn toàn, cho nên bùn không ngập cả khoang thuyền. Phía dưới lớp bùn này có lẽ toàn là hàng hóa thời xưa, không biết là cái gì.

Bò vào bên trong chừng bảy, tám mét, chúng tôi có thể trực tiếp nghe thấy tiếng động kỳ quái này rồi. Không nghe qua bộ đàm, tiếng động này nghe có hơi khác một chút, là từ nơi tận cùng bên trong khoang thuyền vọng lại, rất khẽ. A Ninh dừng lại, tắt bộ đàm, rồi bò về phía tiếng động vang lên.

Tôi hơi giữ vững khoảng cách với cô ta, chừa khoảng không gian cho cô ta có thể lùi. Bò chưa được mấy bước, A Ninh liền kinh hô một tiếng, dừng lại. Tôi cũng vội vã bò đến, từ bên cạnh cô ta thò đầu ra nhìn, liền thấy trên sàn tàu bị bùn đất đắp kín ở cuối khoang thuyền có một hang động to cỡ mặt bàn tròn, hình như là bị sụt lở mà ra. Bên dưới đó vẫn có không gian, dùng đèn pin chiếu xuống, phía dưới lộn xộn bừa bãi, toàn là những khối đất từ bên trên sụt xuống, có một người bị vùi trong đó, chỉ lộ ra nửa người trên.

Tôi chiếu đèn pin vào một cái, lập tức nhận ra đó là một trong ba người mất tích. Trên mặt anh ta toàn là bùn, xanh mét, không biết là chết hay sống. Tiếng cười lạnh kia chính là từ bên dưới đống đất này vọng lên.

"Đúng là ở bên trong!" Tôi kêu to, thầm nghĩ đám người này đùa cũng quá trớn rồi. Tôi vừa gọi vừa lách lên trước, muốn xuống dưới đó đào anh ta lên.

Không ngờ khi tôi vừa gọi, tiếng cười lạnh kia lập tức tắt lịm đi, toàn bộ khoang thuyền bỗng dưng im bặt.

Tự dưng lặng thinh thế này làm tôi sợ hết hồn, tay chân bất giác khựng lại.

Sau đó tôi nghĩ, vừa rồi chúng tôi đã thảo luận, tiếng động này là tín hiệu cầu cứu của bọn họ, hiển nhiên có người đã nghe được tiếng tôi gọi cho nên bèn ngừng phát tín hiệu. Có hai khả năng: một là, anh ta cho rằng cứu viện đã đến rồi, không cần phải tiếp tục phát ra tiếng động này để thu hút chúng tôi nữa; hai là, anh ta nghe thấy tiếng chúng tôi đến, tinh thần liền thả lỏng, mất đi ý thức.

Dù là khả năng nào thì chúng tôi cũng phải đào anh ta ra, nhất là với khả năng thứ hai. Tôi biết rất nhiều trường hợp, người cầu cứu ngay một khắc trước khi được cứu liền mất ý chí sinh tồn mà thất bại trong gang tấc.

A Ninh và tôi có cùng suy nghĩ. Cô ta để tôi chiếu sáng, còn bản thân thì bò qua đó, sau đó thận trọng xoay người, trượt vào trong hang động kia. Tôi đi theo sau, A Ninh bảo tôi đừng xuống, ở trên tiếp ứng.

Trát Tây ở ngoài nghe thấy tiếng tôi kêu, bèn gọi to hỏi chúng tôi xem tình huống bên trong sao rồi. Tôi bảo cậu ta chờ chút, tôi nhìn rõ một chút nữa rồi nói.

Ở vị trí này lại càng nhìn thấy rõ ràng hơn. Bên dưới cửa động chắc là tầng hầm kho hàng của con thuyền cổ, hoặc gọi là khoang đáy. Khoang đáy thường dùng để đặt những vật dễ bị hư hại, bởi vì ở dưới đáy không rung lắc dữ dội như ở trên. Không gian trong khoang đáy không lớn, bên trong cũng toàn là bùn đất, thế nhưng mức độ bị ăn mòn ít hơn so với tôi tính. Tôi cơ bản có thể tưởng tượng ra đây là bên trong con thuyền, có thể thấy dưới lớp đất bùn hỗn tạp này có rất nhiều bình lọ gốm sứ, chắc là hàng hóa, không biết trong ấy đựng gì.

A Ninh trượt xuống dưới xong lập tức gạt hết đất trên người người nọ ra, sau đó đặt tay lên cổ anh ta, xem mạch đập.

Tôi vội hỏi: "Sao rồi?"

A Ninh rõ ràng là run rẩy một chút, rồi quay ra lắc đầu nhìn tôi, ý bảo không được rồi.

Tôi thở dài. A Ninh bắt đầu đào đất, rất nhanh đã đào được người kia lên, sau đó cố sức kéo anh ta sang một bên. Lúc này tôi liền phát hiện ra, bên trong khối đất vừa đào ra kia lại còn một người khác nữa. Tôi nhìn thấy tóc và một cánh tay, A Ninh vẫn tiếp tục đào xới, nhưng người này bị chôn vùi khá sâu. Cô ta đào mãi một hồi lâu mà vẫn khá hơn.

Tôi thực sự không nhìn nổi nữa, bèn nhảy xuống giúp. Tôi sờ vào tay người kia một cái, trong lòng liền trầm xuống, biết đây không phải đùa nữa rồi, cánh tay của người kia lạnh ngắt. Đã chết.

Chúng tôi dùng sức chín trâu hai hổ mới đào anh ta lên được, cũng kéo sang một bên. Ở phía dưới người này, tôi lại nhìn thấy gương mặt tái lợt của anh Caucasus. Cơ thể anh ta co rúm, hai mắt trợn trừng, tay duỗi ra phía trước, nắm chặt lấy bộ đàm, vẫn duy trì tư thế cứng ngắc như vậy, hình như là muốn từ trong trèo ra ngoài.

Xem ra người phát tín hiệu chính là anh ta. Tôi nhìn thấy cái bộ đàm kia, nghĩ thầm.

Tôi lôi anh ta ra, A Ninh liền sờ cổ anh ta, biến sắc: "Còn sống!" Nói rồi lập tức cởi quần áo anh Caucasus ra, rồi xoa bóp tim phổi, đồng thời kêu to với tôi: "Bảo Trát Tây, nói bác sĩ chuẩn bị cấp cứu, có người nghẹt thở vì bị chôn sống." Nói rồi tiếp tục hô hấp nhân tạo cho anh Caucasus.

Tôi vội vã đứng lên gọi to với bên ngoài. Trát Tây nghe xong, cũng lập tức kêu ông bác sĩ đứng dưới gò đất. Tôi quay đầu, liền thấy anh người Caucasus co giật một chút, người co rụt lại, đồng thời bắt đầu nôn mửa, tức là hô hấp đã khôi phục lại.

"Anh lên giúp!" A Ninh nói với tôi với vẻ đanh thép, giọng nói tuy rất bình thường, nhưng tràn đầy uy nghiêm.

Tôi sửng sốt một chút, tự dưng bị thần thái này của cô nàng làm giật mình, như phản xạ có điều kiện, tôi lập tức làm theo lời cô. Sau đó, A Ninh nhanh chóng cởi áo quần của mình, buộc vào thân người anh Caucasus, làm một cái cáng cứu thương đơn giản, sau đó ném tay áo cho tôi, bảo tôi ra sức kéo.

Tôi ở phía trên, cắn răng cố hết sức kéo mạnh, cô ở dưới khiêng lên, đưa anh Caucasus lên trên. Sau đó, tôi cứ thế lùi về sau, gắng sức đưa anh ta đến khe nứt của con thuyền đắm.

Ở bên ngoài, Trát Tây đang chuẩn bị. Anh Caucasus vừa được đẩy ra ngoài, Trát Tây liền cõng cả một anh chàng Caucasus cao to lồng ngồng lên lưng, dùng thắt lưng buộc chặt, rồi leo xuống dưới. Tôi mệt quá, vừa đỡ A Ninh đi ra, vừa thở phì phò đi theo, bảo vệ Trát Tây, trèo xuống dưới từng chút từng chút một.

Dốc hết sức bình sinh, nhiều lần thấy Trát Tây suýt té ngã, may mà cậu ta phản ứng nhanh, mỗi lần nghiêng ngả đều có thể dùng dao găm trụ vững lại được. Vất vả lắm mới trèo được xuống đất, bác sĩ đã chuẩn bị xong hết, chúng tôi đưa anh Caucasus đặt lên nền đất, bác sĩ lập tức chuẩn bị cấp cứu.

Thế nhưng, khi xé mở áo của anh Caucasus, đột nhiên anh ta co quắp, túm lấy áo bác sĩ kéo xuống. Chúng tôi vội vã đè anh ta lại. Bác sĩ vạch áo khoác anh ta ra, tôi lập tức lên cơn buồn nôn. Chỉ thấy, bên dưới lớp áo khoác giữ âm của anh toàn toàn là máu thịt bê bết, có lẽ là ngoại thương.

Bác sĩ dùng kéo cắt lớp áo lót anh ta ra, kéo miếng vải lên để cầm máu thì ông ta kêu một tiếng "Trời ạ!". Lúc này, tôi gần như sắp nôn mửa. Chỉ thấy, trên bụng anh Caucasus lỗ chỗ toàn là những lỗ máu rất nhỏ, không chảy nhiều máu, lỗ máu cũng rất nhỏ, nhưng lại có quá nhiều lỗ, ước chừng phải hai mươi, ba mươi cái.

"Đây là vết thương gì vậy?" Trát Tây hỏi.

Bác sĩ lắc đầu: "Không biết, hình như là... bị cái gì đâm vào, đường kính tương đương cái tua vít vậy. Có điều, sao áo lại không bị rách? Hai người ở hiện trường có để ý tới không?"

Chúng tôi đều lắc đầu, kỳ thực, lúc đó hỗn loạn như thế, chúng tôi quả thực không chú ý đến bụng của anh ta. Nhưng quần áo anh ta rõ ràng không bị rách, điều này chúng tôi có thể khẳng định. Chắc hẳn không phải là ngoại thương do bị sụt lở tạo thành.

Giờ cũng không suy nghĩ được nhiều vậy. Bác sĩ bèn bảo chúng tôi giúp đè anh ta lại, trước kiểm tra qua một chút, rồi tiêm cho anh ta một mũi, cuối cùng lấy túi oxy ra cho anh ta thở. Có lẽ do tác dụng của mũi tiêm nọ, anh Caucasus dần dần yên tĩnh lại.

Làm xong những thứ này, toàn thân chúng tôi đã toàn mồ hôi. Bác sĩ lau mồ hôi, chúng tôi thì ngồi nghĩ cách. Người này bây giờ quá yếu ớt, chúng tôi không thể đưa anh ta ra ngoài, thế nhưng phần lớn thiết bị đều ở trên xe bên ngoài rồi, cần chuyển vào đây. Ngoài ra, còn cần lều bạt và túi ngủ để giữ ấm cho anh ta, chờ anh ta ổn lại thì mới đưa ra ngoài được.

Ở đây chỉ có Trát Tây là biết cách xem những đống đá ký hiệu, cậu ta bèn nói để cậu ta đi lấy đồ, tiện thể gọi thêm người đến hỗ trợ. Chúng tôi đi một đường tới đây tốn rất nhiều thời gian, có điều đi ra ngoài thì nhanh hơn nhiều. Tôi nói, tôi đi cùng cậu ta, cậu ta lại bảo không cần, cậu ta đi một mình thì nhanh hơn, tôi ở chỗ này chăm nom.

Nói rồi, cậu ta liền chạy ra. Bác sĩ cởi áo của A Ninh trên người anh Caucasus ra, trả lại cho cô, sau đó lấy chăn giữ ấm trong ba lô trên lưng, đắp ấm cho mấy phần cơ thể quan trọng của anh Caucasus.

Tôi nhóm lò không khói, tăng độ lửa lên, rồi đặt qua một bên, cho vài người sưởi ấm, cùng lúc đó tôi lấy rượu trắng, mấy thứ này cũng là dùng để chống đỡ cái lạnh. Chúng tôi vừa toát đầy mồ hôi, buổi tối ở sa mạc khá lạnh, rất dễ mắc bệnh.

Lửa nhóm lên, chiếu sáng khắp bốn phía, chẳng mấy chốc đã ấm lên. Bác sĩ tiếp tục xử lý vết thương trên người anh Caucasus. Tôi với A Ninh lùi qua một bên, mệt mỏi suốt mấy tiếng đồng hồ lập tức trỗi dậy. Tôi ngồi trên một tảng đá lớn uống nước, A Ninh đắp thêm áo, hai chúng tôi mặt mũi toàn đất bùn, trông cực kỳ chật vật. Tôi nhìn cô cười khổ một tiếng, lại thấy cô ta nét mặt uể oải đến ngồi dựa vào gò đất, hí hoáy nghịch bộ đàm, có vẻ khá ủ rũ.

Tôi nhớ tới lúc nãy cô ta khí thế bừng bừng, nghĩ thầm đúng là không dễ dàng gì. Cô ta một thân đàn bà con gái, lại có thể lão luyện trong những tình cảnh như thế này, nghĩ đến phỏng chừng cũng là bức bách mà thành. Nghĩ xem một cô gái sao mà phải dũng mãnh đến cỡ này, đúng là có chút xót xa.

Có điều, nhắc đến cũng thấy kỳ quái. Trông cô ta cũng không giống dạng thiếu tiền, đi làm những việc này cũng không thấy cô ta vui vẻ gì. Rốt cuộc cô ta vì sao mà phải bán mạng cho Cầu Đức Khảo đây? Không những thế còn liều mạng đến cỡ này, thực sự không nghĩ ra nổi, sau này có cơ hội phải đi hỏi thăm xem sao.

Uống mấy ngụm nước liền mắc tiểu, vì thế tôi bèn đi vòng ra sau gò đất đi giải quyết, nhóm người này trong sa mạc cũng toàn thế, tôi cũng quen rồi.

Đang đứng đái, bỗng tôi nghe thấy từ một tảng đá ở bên cạnh chợt vang lên một tiếng cười lạnh quái dị, tiếng động đó hoàn toàn không khác gì với tiếng động trước nghe trong bộ đàm, tức thì khiến toàn thân tôi lạnh ngắt. Tôi quay phắt đầu nhìn tảng đá kia, tự nhủ sao vẫn nghe thấy cái âm thanh này thế, có phải là ảo giác nghe lầm rồi hay chăng?





loading...

Danh sách chương: